Page 17 - Sac Huong Que Nha
P. 17

Saéc Höông Queâ Nhaø


        Chuyện Làng Võ (trang 10 & 11).

               - Và trống trận Tây Sơn được đề cập trong Lễ Hội Ngày Xuân (trang 9), Võ Học Bình Định (trang 10).

               Thứ năm: Trước kia, các bài viết đều ở dạng chữ VNI. Từ hạ bán niên 2012, chuyển các bài ấy sang dạng
        Times New Roman. Trong quá trình chuyển dạng, một số chữ bị biến đổi, lại một lần nữa phải rà soát điều chỉnh.
               Năm lý do nêu trên, khiến bài viết của chúng tôi phải bổ chính nhiều lần. Và để tập sách được nhất quán
        trong việc biên soạn, qua cách trình bày, chúng tôi xin thưa:

               - Về địa danh, khi đề cập đến tên đất một đơn vị hành chánh nào, chúng tôi cố gắng nêu địa danh lúc sự
        kiện xảy ra, kèm theo tên gọi hiện nay. Nếu địa danh có nhiều lần thay đổi, chúng tôi nêu cả tên cũ quen thuộc
        nhất, và tên mới hiện dùng.

               - Về đo lường: Độ dài và chiều cao, tính bằng thước tây (metre, viết tắt là “m,” Việt hóa là “mét”) hay
        bằng phân tây (centimetre, viết tắt là “cm”). Trọng lượng, tính bằng kilogram, gram viết tắt là “kg, gr” và Việt hóa
        là “ký, gam.” Để khỏi lầm lẫn về công dụng dấu phết và dấu chấm trong cách viết chữ số của Việt Nam và Mỹ,
        chúng tôi theo cách viết của Việt Nam: dùng dấu chấm (.) để ngăn cách số triệu, số ngàn và số đơn vị; dùng dấu
        phết (,) để phân biệt số hàng đơn vị và số lẻ.

               Tuy nhiên, chúng tôi có thể viết theo hai cách:

               Cách thứ nhất: Số đơn vị và số lẻ ngăn cách bởi dấu phẩy (,) và sau cùng là tên đơn vị. Thí dụ: 942,46 km²;
        40.579,06 ha; 5,420 m³; 30,82%.

               Cách thứ hai: Tên đơn vị nằm giữa số đơn vị và số lẻ.  Thí dụ: 942 km² 46,

        4 mét 863.
               - Số đo, nếu tính theo thước ta, về độ dài có: trượng (bằng 2 tầm), tầm (bằng 5 thước), thước (bằng 0 m
        424), tấc, phân, ly (theo thập phân). Về diện tích có: mẫu, sào, thước, tấc, phân, ly, hào, hốt, ti, vi.

               - Về danh từ riêng, gồm tên tác phẩm, tên người, địa danh; tất cả các mẫu tự đầu đều viết hoa.

               - Số thứ tự của ghi chú đặt trong “dấu móc sổ”, còn gọi là “dấu móc đứng.” Thí dụ: Ghi chú số 4, viết là
        [4].
               - Không gạch nối trong Việt ngữ, trừ một số trường hợp ghi âm tiếng ngoại quốc.

               - Ghi chú và Tài liệu tham khảo, đặt ở cuối mỗi chương sách (endnotes), chứ không cước chú từng trang
        (footnotes). Mỗi tài liệu tham khảo, ghi đủ ba thành phần, theo thứ tự: tác giả, tác phẩm và xuất bản. Nếu tác giả
        từ ba người trở lên, chỉ nêu tên người đầu và tiếp theo dùng nhóm chữ “tác giả khác” viết tắt là “tgk.” Những chi
        tiết về xuất bản, lần lượt ghi: nơi xuất bản, nhà xuất bản viết tắt là “nxb,” năm xuất bản.

               - Về Mục lục, thiết lập cả hai loại: Mục lục chung cho toàn tập, tạm gọi là “Mục Lục Tập Sách,” ghi tổng
        quát và đặt ở phần đầu sách. Ngoài ra, còn có mục lục riêng từng chương, ghi đầy đủ các tiểu mục và liệt kê các
        hình ảnh, dưới dạng dàn bài chi tiết, tạm gọi là “Mục Lục Chương Sách,” đặt sau phần Ghi chú và Tài liệu tham
        khảo của mỗi chương.

               - Phần Phụ lục, đặt ở vị trí cuối sách, gồm: Bảng tra cứu, Tiểu sử Tác giả, Lời bình của Tòa Soạn và Độc
        giả, Giới thiệu sách và những mục linh tinh khác.




            Ñaøo Ñöùc Chöông                                                                                  17
   12   13   14   15   16   17   18   19   20   21   22