Page 68 - SCK Mot so va de ve thua ke theo quy dinh cua phap luat VN
P. 68

chưa thành niên: Người chưa đủ 06 tuổi phải thực hiện giao dịch dân sự thông

          qua người đại diện theo pháp luật của người đó. Đối với người từ đủ 06 tuổi đến
          chưa đủ 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được, người đại diện
          theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch dân sự phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày

          phù hợp với lứa tuổi. Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thì có thể tự mình
          xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động

          sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải
          được người đại diện theo pháp luật đồng ý.

               - Về khả năng nhận thức của người lập di chúc

               Tại khoản 1 Điều 655 BLDS năm 1995 và điểm a, khoản 1 Điều 652 BLDS

          năm 2005 và khoản 1 Điều 630 BLDS năm 2015 đều có quy định giống nhau về
          nhận thức của người lập di chúc: "Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong

          khi lập di chúc...".

               Hiện nay, pháp luật dân sự của nước ta chưa có quy định nào về việc người
          lập di chúc phải giám định sức khỏe trước khi lập di chúc. Vì vậy, người lập di

          chúc có thể khám sức khỏe hoặc không khám sức khỏe trước khi lập di chúc.

               Trên thực tế người lập di chúc ít khi đi giám định sức khỏe, khám sức khỏe
          trước khi lập di chúc. Vì vậy, tình trạng sức khỏe của người lập di chúc tại thời

          điểm lập di chúc không được thể hiện. Khi có tranh chấp xảy ra, bên đương sự
          nào cho rằng người lập di chúc không đủ sức khỏe, ảnh hưởng đến sự minh mẫn
          của người lập di chúc trong khi lập di chúc thì họ phải có nghĩa vụ chứng minh.

          Thực tiễn giải quyết tranh chấp thừa kế tại TAND cho thấy tình trạng này diễn ra
          tương đối phổ biến. Bên yêu cầu chia thừa kế theo di chúc có nghĩa vụ xuất trình

          trước Tòa án các chứng cứ liên quan đến việc người lập di chúc hoàn toàn minh
          mẫn, sáng suốt khi lập di chúc. Ngược lại, bên yêu cầu chia thừa kế theo pháp

          luật có nghĩa vụ xuất trình các chứng cứ để chứng minh người lập di chúc không
          minh mẫn, sáng suốt để bác bỏ yêu cầu chia thừa kế theo di chúc.

               Về nguyên tắc, tất cả các di chúc đều được coi là do người để lại di sản lập

          trong lúc minh mẫn, sáng suốt. Vì vậy, đương sự nào cho rằng khi lập di chúc
          người lập di chúc không minh mẫn, sáng suốt phải có nghĩa vụ chứng minh trước
          Tòa án có thẩm quyền. Chỉ khi có đầy đủ cơ sở khẳng định người lập di chúc

          không minh mẫn, sáng suốt như: Kết luận của cơ quan y tế, bản án có hiệu lực
          pháp luật của Tòa án... thì Tòa án có thẩm quyền tuyên bố di chúc vô hiệu. Thông

          thường, những di chúc được chứng nhận, chứng thực của cơ quan Nhà nước có
          thẩm quyền ít khi xảy ra tranh chấp về việc người lập di chúc có minh mẫn, sáng


                                                     66
   63   64   65   66   67   68   69   70   71   72   73