Page 346 - Xuan Giap Thin 2024 FINAL 2
P. 346
bằng cách vái lạy thần linh. Hàng đêm hai vợ chồng đốt nhang, vái bốn phương trời, cầu
khẩn cho con mình mau khỏi bệnh. Sau đó mang nhang cắm chung quanh nhà như muốn
làm hàng rào lửa chặn tà ma. Tôi sang thăm, thấy đứa nhỏ nam thiêm thiếp, không hy
vọng gì qua khỏi. Tôi đưa chai dầu gió còn một nửa cho người mẹ để cạo gió cho nó. Đến
chiều đứa nhỏ hơi tỉnh lại. Bà mẹ vui mừng bón cơm và ép nó ăn. Khoảng gần nửa đêm,
chợt tiếng khóc nổi lên, tôi chạy vội sang, đứa nhỏ đang hấp hối. Mẹ nó sợ quá chạy ra
ngoài sân, kêu gào khóc lóc. Cha nó cầm nhang vái lia lịa bốn phương, tám hướng. Tôi
sức dầu, bóp chân tay cho nó, nhưng đứa nhỏ kiệt sức dần, nấc lên rồi chết. Người cha
ôm xác con kêu gào, chửi rủa lung tung. Rủa cho số phận nghèo nàn không tiền chạy
chữa cho con. Chửi đời, chửi người, chửi cả thần linh đã không nhận lời cầu xin của hắn.
Các người đồng đội lấy chiếu bó xác thằng nhỏ lại, mang ra giữa đồng, đào huyệt chôn
ngay đêm đó. Sáng hôm sau tôi đến an ủi hai vợ chồng. Họ ngồi gục đầu khóc tức tưởi.
Tôi lấy chiếc đồng hồ còn dấu được đưa tặng người chồng và ra dấu vỗ về an ủi họ.
Ngày 10 tháng 1 năm 1985, tôi ngỏ ý với người trưởng toán là tôi muốn về Battambang
để tìm người quen xin tiền. Hắn nhìn tôi im lặng, nhưng tỏ vẻ thông cảm. Ngày hôm
sau, tôi bảo Huy Mạnh ra đường lộ chơi, khi nào thấy xe đò chạy từ Sisophon về
Battambang gần tới thì ra hiệu. Khoảng 10 giờ thấy nó gật đầu, vừa lúc xe ngừng lại đón
khách, tôi theo lên xe. Xe chạy. Người trưởng toán dân quân biết, nhưng làm lơ. Tôi
thoát. Trên xe, hành khách thuộc đủ mọi thành phần, bộ đội Việt Nam, dân buôn gánh
bán bưng và dân buôn lậu. Mỗi lần xe qua trạm kiểm soát, hành khách phải xuống xe, đi
bộ ngang qua để người lính canh nhận diện. Có người bị gọi trở lại và bị giữ luôn. Tôi
lấy khăn sọc rằn của người Miên chùm kín lên đầu, vừa ngụy trang, vừa tránh bụi. Qua
bao ngày dãi đất dầm sương nên trông càng giống dân Kampuchia làm ruộng vả lại tôi
không có hành lý nên cũng dễ thoát nạn.
về đến Battambang khoảng 3 giờ chiều. Thành phố hoang tàn trong nắng gắt và bụi
mờ. Thành phố khô khốc, chỉ có chiến tranh và lính. Các hàng quán dựng tạm để phục
vụ cho lính, sống nhờ lính và sống nhờ chiến tranh. Tôi gặp một thanh niên gốc Bắc Việt,
đi bộ đội từ nhò. Năm 1975 tham gia trận Xuân Lộc. Năm 79 sang đánh nhau với Polpot
tại Kampuchia. Năm 81 bị thương, giải ngũ, ở lại Battambang, cưới người vợ Việt lai
Miên, mở sạp hủ tíu bên lề đường gần chợ Cây Dừa sống qua ngày. Cả hai vợ chồng sẵn
sàng giúp đỡ tôi. Anh tìm phương tiện cho chúng tôi về Nam Vang. Anh muốn gửi chúng
346