Page 320 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 320
Tiếng Việt Tuyệt-Vời Đỗ Quang-Vinh
Ðây là tập-quán trong ngôn-ngữ thông-thường, chứ không
phải trong văn-chương chữ viết phải viết như thế. Những
tiếng: "chừ, mô, tê, răng, rứa" với âm-giọng nằng-nặng khi
xuống thì trầm-trầm, khi lên thì không tới hết cao-độ như
giọng Bắc, nghe ra vẫn thấy cái vẻ ấm-áp đằm-thắm mà
nhịp-nhàng phảng-phất âm-hưởng của ca Huế, điệu hò sông
Hương. Những tiếng đọc trại âm trại dấu của miền Nam như
"ừa, đi dìa" "hổng có đâu, ăn Hai nè!" nghe ra cái dáng uốn-
éo, mềm-mại, cái giọng nhừa-nhựa, nhỏ-nhẹ, nhõng-nhẽo
và quyến-rũ làm sao!
Tập-quán ấy thể-hiện đời sống của người dân mỗi miền:
hoặc khuôn-thước, câu-nệ của đất ngàn năm văn-vật, hoặc
trang-nghiêm cổ-kính, kín-đáo nồng-nàn như của đất Thần-
Kinh u-hoài thơ-mộng và trầm-mặc khắc-khổ như vùng
Trường-sơn sỏi đá khắc-nghiệt, hoặc phóng-túng, cởi-mở
hồn-nhiên tự-do như đồng bằng Nam-Việt thẳng cánh cò
bay.
Sự giao-thông cách trở từ ngàn xưa tiếp đến chính-sách
chia, trị của thực-dân đã cản trở luồng giao-lưu văn-hóa giữa
các miền, tạo nên những sắc-thái không phải chỉ trong
phong-tục, lễ-nghi mà ngay cả trong tiếng nói, một khía-
cạnh của văn-hóa. Những biến-cố chính-trị từ thập-niên
1950 đã thuận-lợi cho hội-nhập đời sống: người Bắc thuở
xưa di-cư vào Nam hồi 1954 nay nói giọng Bắc cũng đã khác
với người Bắc hiện nay vào Nam sau 1975.
Ngược lại những người miền Nam tại các vùng Saigon, Chợ-
lớn và các tỉnh có lẫn-lộn dân-chúng hai miền Nam Bắc -
nghĩa là có hội nhập - cũng đã có giọng nói mang-máng
giọng Bắc.
319