Page 309 - Di san van hoa An Duong
P. 309

mãn  tang,  ông  về  triều  và
             được vua phong làm “Nội thị
             kiêm  quản  Thiên  Trường
             phủ”. Năm Ất Mão, ông Thản

             được  phong  làm  Thiếu  úy,
             Quán  phục  Hầu.  Năm  Quý
                         (*)
             Mùi  (1283) ,  có  giặc  Nguyên
             Mông sang xâm lược nước ta,
             ông  được  vua  phong  làm
             Hành khiển mang quân đánh
             giặc.  Sau  khi  thắng  giặc  ông

             Thản  được  phong  chức  Phó
             Đô úy, vua chiếu cho dân Kiều
             Đông  được  miễn  trừ  tô  thuế,

             phu  dịch  5  năm  liền.  Năm
             1287,  giặc  Nguyên  Mông  lại
             sang xâm lược nước ta, vua cử
             ngài  cầm  quân  cùng  Trần

             Hưng  Đạo  đánh  giặc  ở  Bạch
             Đằng  Giang.  Quân  giặc  đại                     Khám và tượng thờ
             bại, nhà vua phong cho ông Hoàng Công Thản là Uy Mẫn tổng, được làm Phụ

             chính cho vua. Được một thời gian do công việc nhiều, nên ông bị bệnh, ông xin
             về quê nhà dưỡng bệnh. Nhà vua ban cho ông tiền của, voi, ngựa, quân lính về
             cùng ông, mua công điền cho ông và cứ vài tháng vua lại cử các quan trong triều
             về thăm hỏi ông. Nhưng do bệnh nặng, ông đã mất vào ngày 20 tháng 11 và đã

             hiển thần từ đó. Thần hiệu của Ngài là “Linh ứng Đại Vương”.
                   Đến thời vua Thái tổ Cao Hoàng Đế (vua Lê Lợi), mang quân qua làng Kiều

             Đông, trời mưa to, gió lớn không thể đi được, vua cho đóng quân tại đây. Đêm vua
             nằm ngủ mộng thấy Hoàng Công Thản hiện về xin âm phù cho ba quân. Sau đó
             vua bình được giặc Minh. Nhớ đến công âm phù của Ngài, vua Lê Lợi đã sắc
             phong, ban cho làng Kiều Đông một trăm lượng tiền, lệnh cho dân địa phương
             rước sắc về xây dựng đền phụng thờ Ngài Hoàng Công Thản. Kể từ đó người dân

             đến cầu Ngài tại đền thờ đều thấy linh ứng, sáng tỏ.

             (*) Thần tích có thể ghi nhầm, theo chính sử là năm Ất Dậu (1285)



              309   DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG
   304   305   306   307   308   309   310   311   312   313   314