Page 36 - Di san van hoa An Duong
P. 36

姊弟弌門扶越地
                                               英靈萬古鎮南天


                   Phiên âm:       Tỷ, đệ nhất môn, phù Việt địa

                                   Anh linh vạn cổ trấn Nam thiên.

                   Nghĩa là:       Chị, em một nhà phù nước Việt

                                   Linh thiêng còn mãi đất trời Nam.

                   Qua  sân  đình  làm  bằng  bê  tông,  bước  lên  hiên  đình  qua  bậc  cấp  bằng
              những viên đá cổ (hiện chỉ còn một bậc do nền sân tôn cao đã lấp đi một số bậc
              đá cũ). Đại bái đình Nhu Thượng có kích thước khá to, rộng, nhưng không cao,

              vì theo kích thước khuôn mẫu của ngôi đình cổ thời xưa, nên thường thấp. Đình
              xây có mái chéo đao tầu góc, mái lợp ngói mũi. Trên mái được đắp trang trí các
              đề tài truyền thống như: đỉnh giữa bờ nóc đắp lưỡng long chầu nguyệt, khúc

              nguỷnh đắp con sô, đao mái đắp tổ hợp rồng chầu, phượng vũ. Cửa chính tòa đại
              bái gồm 3 gian, cửa đóng theo kiểu cổ, cửa thùng khung khách, riêng ngưỡng và
              lá ngạch cửa bằng đá trông rất cổ kính. Tường bao che phía trước và tường hồi
              của gian hồi đình, trổ cửa sổ tròn để lấy thêm ánh sáng vào trong ngôi đình. Bộ

              khung chịu lực của tòa đại bái gồm bốn bộ vì chính, vì bốn hàng chân cột, kết
              cấu chồng rường giá chiêng con nhị, vì nách cốn. Phần điêu khắc trang trí được
              tập trung tại những bức cốn của hai bộ vì gian trung tâm. Trên các bức cốn thể

              hiện các hình thức chạm bong kênh, chạm nổi, chạm chìm... phản ánh đề tài tứ
              linh, như: long cuốn thủy, phượng mang thư, quy đội lá sen, lân hý cầu, long vân
              khánh hội... cùng với đề tài tứ quý: trúc, cúc hóa long, mai điểu... Các đầu dư

              chạm nổi rõ hình đầu rồng, với đủ râu tóc, mắt, mũi, miệng rồng ngậm ngọc...
              Trong tám đầu dư của bốn bộ vì, có 5 đầu dư được chạm khắc đầu rồng mang
              phong cách thời Nguyễn, ba đầu dư còn lại mang phong cách điêu khắc đầu rồng

              thời Hậu Lê, thế kỷ XVIII. Đây là những cấu kiện điêu khắc kiến trúc còn lại của
              ngôi đình dựng thời Hậu Lê. Trên các bảy hiên của đình cũng được chạm khắc
              tinh xảo với các đề tài tứ quý sinh động.

                   Tòa hậu cung được làm kiểu chồng diêm nóc các, hai tầng tám mái, giống
              như một phương đình to lớn, mái hậu cung tạo đao cong và được đắp mây tụ

              mềm mại. Như trên đã nêu, tòa hậu cung được dựng vào niên hiệu Tự Đức thứ 14
              (1861). Trên bốn cây cột tứ trụ của cung cấm, đầu cột còn khắc ghi những người



                                                  DI SẢN VĂN HÓA TIÊU BIỂU HUYỆN AN DƯƠNG     36
   31   32   33   34   35   36   37   38   39   40   41