Page 401 - Trinh bay Dia chi Quang Yen (Ver-2020 online)
P. 401
Phaàn IV: Kinh teá 401
Mặc dù quy mô sản xuất của các xí nghiệp, cơ sở sản xuất còn nhỏ và sản phẩm chưa
phong phú, song đây chính là tiền đề cho sự phát triển ngành công nghiệp hiện đại của
thị xã Quảng Yên sau này.
2.2. Từ năm 1976 - 1985
Sau khi đất nước thống nhất, để phục hồi kinh tế và đưa đất nước đi lên, tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976), Đảng xác định đường lối chung của cách mạng xã
hội chủ nghĩa và đường lối phát triển công nghiệp của nước ta trong giai đoạn mới là:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã
hội, đưa nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đại hội cũng thông
qua Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980) với trọng tâm là xây dựng chủ
nghĩa xã hội và công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm (1976 - 1980), sản xuất công nghiệp - tiểu thủ
công nghiệp được huyện Yên Hưng chú trọng hơn. Trong những năm 1976 - 1980, mặc
dù gặp nhiều khó khăn về nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu và đời sống của cán bộ, công
nhân, song các cơ sở vẫn quyết tâm giữ vững sản xuất. Sản xuất vật liệu xây dựng, cơ
khí có bước phát triển, công nghiệp chế biến được duy trì nhờ nguyên liệu sẵn có từ
ngành thủy sản. Năm 1977, xí nghiệp gạch sản xuất được gần 10 triệu viên, vượt kế
hoạch đề ra và là đơn vị đầu tiên hoàn thành kế hoạch. Mặc dù sản xuất công nghiệp có
bước phát triển song tốc độ phát triển còn chậm, quy mô sản xuất còn nhỏ, các xí nghiệp
địa phương và Trung ương liên kết chưa chặt chẽ với nhau.
Đầu những năm 1980 - 1981, cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước có
sự thay đổi theo hướng tăng quyền chủ động, tự chủ cho các doanh nghiệp, các doanh
nghiệp được chủ động trong chi trả tiền lương, tự tạo nguồn nguyên liệu bổ sung cho
lượng nguyên liệu được Nhà nước cấp. Sự đổi mới trong cơ chế quản lý đối với các doanh
nghiệp nhà nước là cơ hội để các doanh nghiệp mở rộng quy mô và chủ động trong sản
xuất. Tuy nhiên, do những khó khăn về vật tư, nguyên liệu và giá cả thị trường nên
trong những năm 1981 - 1985, ngành công nghiệp phát triển không ổn định, giá trị tổng
sản lượng giảm, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp chế tạo và vật liệu xây dựng.
Các cơ quan, xí nghiệp của tỉnh và Trung ương đóng trên địa bàn huyện mặc dù đã khắc
phục được khó khăn và hoàn thành kế hoạch đề ra song chất lượng sản phẩm còn chưa
cao, sự liên kết, liên doanh giữa các xí nghiệp Trung ương và tỉnh với các đơn vị kinh tế
quốc doanh và tập thể thuộc huyện còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.
Bảng 3.1: Giá trị sản lượng ngành công nghiệp giai đoạn 1981 - 1985 phân
theo ngành (giá cố định năm 1982)
Đơn vị: 1.000 đồng
Năm
Lĩnh vực 1981 1982 1983 1984 1985
Công nghiệp chế tạo 33.313 28.563,6 26.024,4 25.778,7 15.603,3
Kim khí 22.716,8 63.308 23.928,4 2.417 180
Công nghiệp hóa chất 77,1 - - - -