Page 23 - C:\Users\Admin\Desktop\LSDB QTien, LCOT\
P. 23
II. CHI BỘ LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN LAM CỐT THAM GIA CUỘC KHÁNG
CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946- 1954)
Đảng và Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tỏ rõ thiện chí, cố gắng làm
những việc có thể, nhằm đẩy lùi chiến tranh, nhưng với dã tâm cướp nước ta một lần nữa,
thực dân Pháp thi hành chính sách việc đã rồi, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm. Ngày
23/9/1945 thực dân Pháp gây chiến ở Nam Bộ. Ngày 20/11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn
công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày
16/12/1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đông Dương đã họp tại Hải Phòng bàn triển
khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Ngày 17 và 18/12/1946 tại
Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún. Chúng
ngang ngược đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô. Hành
động của thực dân Pháp đã đặt Đảng và Chính phủ ta trước một tình thế không thể nhân
nhượng thêm với chúng được nữa, vì tiếp tục nhân nhượng sẽ dẫn đến họa mất nước, nhân
dân sẽ trở lại cuộc đời nô lệ.
Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một sự lựa chọn mới. Thực tế cho thấy khả năng hòa
hoãn không còn. Địch đã công khai tuyên bố chúng sẽ hành động sáng ngày 20/12 nếu
Chính phủ ta khước từ những điểm nêu trong tối hậu thư của chúng. Trong thời điểm lịch sử
đó, Trung ương Đảng đã kịp thời hạ quyết tâm phát động toàn dân kháng chiến và chủ động
mở cuộc tổng giao chiến lịch sử trước khi thực dân Pháp thực hiện màn kịch đảo chính quân
sự ở Hà Nội vào ngày 20/12/1946, như chúng đã nêu lên trong tối hậu thư gửi cho Chính
phủ ta trong những ngày 18, 19. Mệnh lệnh đã được phát đi, vào lúc 20 giờ ngày
19/12/1946 tất cả các chiến trường trong cả nước đồng loạt nổ súng. Cuộc kháng chiến toàn
quốc bùng nổ. Nhân dân cả nước đã đứng lên theo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “... Không!
Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm
nô lệ...''
Cuối năm 1946, theo chỉ thị của cấp trên, Ủy ban kháng chiến của xã được thành lập,
do ông Quách Cao Tăng làm Chủ tịch.
Để nhân dân hiểu rõ mục đích cuộc kháng chiến của ta, một khẩu hiệu kẻ vắt ngang
sườn núi Đót. Mỗi chữ cao 3m, rộng 2m, rải đá, quyét vôi trắng. Từ xa, trông thấy núi Đót
dòng chữ: "Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi''.
Lúc này, Đảng và chính quyền địa phương phải tiến hành hàng loạt các vấn đề cấp
bách. Ngoài việc chống đói, chống nạn mũ chữ còn phải khẩn trương mau chóng chuẩn bị
cho kháng chiến và kháng chiến lâu dài.
Trước tiên là phải củng cố lực lượng dân quân du kích, công an và thành lập đội du
kích cơ động, vũ khí của đội do cấp trên cấp và nhân dân ủng hộ. Hồi đó nhân dân khu vực
Lam Cốt ủng hộ du kích xã 16 khẩu súng, trong đó có 1 khẩu súng lục. Ông Nhận (An
Liễu), ông Đàm (Kép Thượng), ông Nhà (Ngo), ông Tốn (Đông An), bà Thân (Kép
Thượng), ông Hạp (Làng Trung), ông Chắt (Kép Vàng), ông Hào (Làng Ngo),... trong đó
ông Nhận ủng hộ 1 súng lục, 1 súng trường. Làng Ngo ủng hộ một quả chuông đồng, bà
Nhắt (Làng Trung) ủng hộ một xà tích cho công binh xưởng.
23