Page 42 - Sách năm 2022 - Fulltext - hieu final
P. 42
Đi wire qua chỗ tắc hẹp trục động mạch chủ chậu, đùi 2 bên (có hoặc không tiếp cận
từ động mạch cánh tay). Đặt stent có vỏ bọc được bung bằng bóng vị trí động mạch chủ
bụng. (Hình 1A).
Sau khi định vị tối ưu (khoảng 20 mm trên ngã ba chủ chậu), 2 stent có vỏ bọc (Hình
1C) được bung 1 cách đồng thời dạng “kissing stent” trong lòng stent động mạch chủ (Hình
1D). Một phức hợp được hình thành giữa stent động mạch chậu hai bên và stent động mạch
chủ, tạo ra một ngã ba chủ chậu mới dẫn máu xuống chi dưới.(Hình 1E & F).
Hình 1: Kỹ thuật can thiệp nội mạch CERAB.
Phẫu thuât bắc cầu động mạch chủ - động mạch đùi 2 bên:
Bộc lộ động mạch đùi 2 bên qua đường rạch bẹn 2 bên. Phẫu tích bộc lộ, kiểm soát
động mạch đùi chung, đùi nông, đùi sâu.
Mở bụng đường giữa trên và dưới rốn. Phẫu tích bộc lộ động mạch chủ bụng dưới
thận và các nhánh động mạch mạc treo tràng dưới, tĩnh mạch thận trái.
Tạo đường hầm sau phúc mạc.
Cho Heparin 50-100IU/kg.
Kẹp động mạch chủ. Xác định vị trí kẹp tránh vôi hóa nặng hoặc huyết khối. Miệng
nối gần có thể được thực hiện theo kiểu tận tận hoặc tận bên với ống ghép Dacron chữ Y.
Nối tận tận có thể loại bỏ hiện tương đối kháng dòng chảy, cải hiện huyết động học và cấu
hình thấp hơn cho phép bao phủ dễ dàng hơn với các mô sau phúc mạc. Tuy nhiên, ở những
bệnh nhân có động mạch thận phụ thấp hoặc động mạch chậu trong thông suốt và động
mạch chậu ngoài tắc, kỹ thuật nối tận bên có thể được ưu tiên hơn.
Sau khi hoàn thành nối động mạch chủ, các kẹp dài được đưa qua các đường hầm sau
phúc mạc để kéo các nhánh ống ghép vào từng bẹn. Nối các nhánh ống ghép với động mạch
đùi kiểu tận bên.
42