Page 379 - Maket 17-11_merged
P. 379
CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
nhiều HTX, cơ sở sản xuất tham gia; lượng lớn các HTX chưa có sự liên kết với nhau trong
tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nên chưa phát huy được hết tiềm năng của mình.
- Các HTX chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hóa lớn, còn xem nhẹ
việc xây dựng thương hiệu và chưa đầu tư nhiều vào thiết kế bao bì nhãn mác, truy xuất
nguồn gốc sản phẩm. Các sản phẩm nông sản của các HTX chưa vào được siêu thị do
các HTX thiếu thông tin từ các đối tác và chất lượng hàng hóa chưa đạt tiêu chuẩn, đặc
biệt là khâu sơ chế được đánh giá ở mức điểm khá thấp.
- Quy mô đất đai của hộ của nông dân, thành viên HTX nhỏ lẻ, manh mún ảnh
hưởng đến khả năng thu hút doanh nghiệp vào liên kết với các hộ nông dân, HTX để hình
thành vùng nguyên liệu đủ lớn, có thể đầu tư và ứng dụng khoa học kỹ thuật, nhất là nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao nhằm tối đa hóa hiệu quả sản xuất sản phẩm nông sản.
- Hành lang pháp lý đảm bảo liên kết bền vững còn yếu và thiếu các cơ chế, chế tài
đủ mạnh để triển khai được mô hình tổ chức sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hợp
đồng một cách bền vững. Tỷ lệ thành công của những hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu
thụ nông sản còn thấp, tình trạng doanh nghiệp hoặc nông dân “bẻ kèo” vẫn còn phổ
biến.
- HTX thường tiếp cận với những nguồn vốn vay ưu đãi khó khăn để mở rộng sản
xuất kinh doanh, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật nâng cao năng xuất, chất
lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
- Trình độ văn hoá và nghiệp vụ cán bộ quản lý và thành viên HTX nông nghiệp yếu kém,
phần lớn chưa được đào tạo, bồi dưỡng do vậy khó khăn trong việc ứng dụng mới khoa học kỹ
thuật và tiếp thu mới về chính sách phát triển HTX,...
- Một số đầu vào, vật tư nông nghiệp chất lượng còn chưa đảm bảo và sử dụng chưa
hiệu quả. Hiện tượng nông dân mua phải một số loại phân bón, thuốc trừ sâu chưa đảm
bảo chất lượng và không rõ nguồn gốc còn tồn tại. Ngoài ra, nông dân còn khó tiếp cận
được nguồn cung cấp giống cây trồng, vật nuôi đảm bảo chất lượng.
- Trong khâu sản xuất nông sản, nông dân còn chịu nhiều thiệt thòi. Trong số ba tác
nhân tham gia chuỗi giá trị xuất khẩu (nông dân, thương lái, doanh nghiệp xuất khẩu), nông
dân phải bỏ mức chi phí cao nhất, sau đó mới đến thương lái và các doanh nghiệp xuất khẩu,
nhưng hưởng lợi lại thường thấp hơn cả.
- Dịch vụ Logisitics phục vụ hoạt động xuất khẩu của sản phẩm nông nghiệp Việt
Nam còn hạn chế, ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ hư hỏng và chất lượng, hình thức hàng
hóa. Trên thực tế, doanh nghiệp ngành nông nghiệp và Logistics vẫn chưa có được sự
liên kết chặt chẽ. Giao dịch giữa hai bên phần lớn vẫn chỉ thực hiện dưới hình thức cho
thuê theo hợp đồng chứ chưa có sự liên kết để hỗ trợ nhau về giá nâng cao chất lượng
377