Page 447 - Maket 17-11_merged
P. 447

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

               Hạn chế của tổ chức và hoạt động KH&CN tại địa phương

               Tại địa phương, tổ chức quản lý và hoạt động khoa học, công nghệ của một số sở,
           ngành, huyện, thị xã, chưa được coi trọng đúng mức. Tổ chức quản lý hoạt động khoa
           học và công nghệ cấp huyện chậm đổi mới, đặc biệt một số huyện chưa bố trí cán bộ
           chuyên trách theo dõi hoạt động KH&CN gây khó khăn trong triển khai nhiệm vụ quản
           lý hoạt động khoa học và công nghệ cơ sở. Thiếu cơ chế điều phối, kết nối liên cấp, liên
           ngành đối với các nhiệm vụ KHCN (N. Q. Nguyễn & Đặng, 2011). Việc phát triển sản
           xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao tại địa phương còn chậm so kỳ vọng. Lĩnh
           vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao yêu cầu trình độ tri thức ứng dụng KHCN có
           tính chuyên môn hóa cao, trong khi nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của nhiều
           tỉnh chưa thể đáp ứng, việc thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đảm bảo nên
           chưa có nhiều chuyên gia cho từng lĩnh vực, chủ yếu vừa kiêm nhiệm công tác quản lý
           vừa thực hiện, rút kinh nghiệm.
               3. Tồn tại về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ việc nghiên cứu,
           ứng dụng và phát triển KHCN
               Thiếu các chuyên gia giỏi đầu ngành trong nghiên cứu và phát triển KHCN
               Đội ngũ cán bộ KH và CN tuy gia tăng về số lượng nhưng thiếu các chuyên gia giỏi
           đầu ngành trong nhiều lĩnh vực tiên phong. Các công trình nghiên cứu tầm cỡ quốc tế,
           có đóng góp đột phá đối với phát triển kinh tế - xã hội còn ít. Tốc độ đổi mới công nghệ
           trong các doanh nghiệp còn chậm, cho nên chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả,
           sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. KH và CN chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy
           phát triển kinh tế - xã hội. Các chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực CNC trong nông
           nghiệp còn chung chung, chưa được cụ thể hóa trong các văn bản hướng dẫn, chưa bố trí
           nguồn kinh phí hỗ trợ. Các nội dung hỗ trợ trong Luật CNC và các văn bản khác tuy có
           nhưng chưa có mức hỗ trợ cụ thể, chưa có văn bản hướng dẫn thực thi. Vì vậy, các nội
           dung hỗ trợ này chưa được áp dụng vào thực tế.

               Chất lượng nguồn nhân lực KHCN trong khu vực nông thôn tương đối thấp
               Nhìn chung nguồn nhân lực KHCN khu vực nông thôn còn thấp, chưa đáp ứng yêu
           cầu ứng dụng CN tiên tiến. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo ở nông
           thôn năm 2019 chỉ có 16,3%. Nội dung đào tạo nghề nông thôn còn lạc hậu, chưa có các
           nội dung đặc thù trong nông nghiệp CNC như công nghệ sinh học, công nghệ số, tự động
           hóa, cơ khí chính xác, vật liệu mới, ứng dụng công nghệ số trong sản xuất thông minh;
           nông nghiệp thông minh. Các hỗ trợ về đào tạo nghề chưa bắt kịp nhu cầu của doanh
           nghiệp và thị trường. Hệ thống chính sách hỗ trợ phát triển KHCN còn chồng chéo (đầu tư,
           giáo dục, dạy nghề…); giải pháp đổi mới giáo dục nghề còn thiếu hệ thống, đồng bộ, mang
           tính chắp vá, không hiệu quả. Thiếu các chính sách thúc đẩy việc xã hội hóa công tác đào
           tạo nghề. Nguồn kinh phí dựa chủ yếu vào ngân sách Trung ương hỗ trợ, mặt khác kinh

                                                445
   442   443   444   445   446   447   448   449   450   451   452