Page 449 - Maket 17-11_merged
P. 449

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

           tại, nguồn nhân lực cho nghiên cứu khoa học nông nghiệp lên tới 8.000 người ở các viện,
           trường nhưng chúng ta vẫn thiếu cán bộ đầu đàn, cán bộ làm công tác nghiên cứu cơ bản
           và nghiên cứu chuyên sâu.
               Lực lượng nghiên cứu viên cao cấp đang bị già hóa, trong khi thế hệ kế cận chưa
           phát triển kịp, chưa kể đến một lực lượng không nhỏ cán bộ nghiên cứu bỏ viện, trường
           ra làm cho các doanh nghiệp vì có chế độ đãi ngộ tốt hơn. Bên cạnh đó, nguồn nhân lực
           cho chuyển giao công nghệ (khuyến nông) đa số không được đào tạo bài bản và được cập
           nhật kiến thức về KH&CN, nên cần được đào tạo và đào tạo lại để đáp ứng được yêu cầu
           ngày càng cao về nguồn nhân lực cho công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
           nghệ (đặc biệt là công nghệ cao và nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí
           hậu, nông nghiệp sinh thái, hữu cơ). Mặt khác, cần xem xét về chế độ đãi ngộ để không
           bị “chảy máu” chất xám đối với cán bộ nghiên cứu và để cán bộ làm công tác khuyến
           nông yên tâm công tác, làm việc có hiệu quả.
               4. Tồn tại về hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu, phát triển và ứng
           dụng KHCN, đổi mới sáng tạo trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
               4.1 Rào cản về khoảng cách về trình độ nguồn nhân lực cao trong nước và quốc tế

               Cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế phát triển nguồn nhân lực KHCN. Nhân lực nói
           chung, nhân lực KHCN nói riêng là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của mỗi
           quốc gia. Do đó, cần tăng cường hợp tác quốc tế trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
           KHCN bằng các chương trình đào tạo cụ thể, gắn với việc trực tiếp phát triển và nâng cao
           năng lực nghiên cứu cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
           Việc nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học trong nước có thể kết hợp với các chương
           trình tài trợ, hỗ trợ cho nhân lực KHCN đi đào tạo ở nước ngoài và các hoạt động giao
           lưu, trao đổi học thuật quốc tế song phương và đa phương. Xây dựng mạng lưới hợp tác
           nghiên cứu với các nhà khoa học nước ngoài và mở rộng các chương trình đào tạo ở nước
           ngoài để cán bộ KHCN được cọ xát trong môi trường học tiên tiến và được đào tạo trong
           hoạt động nghiên cứu - triển khai quốc tế.
               4.2 Hoạt động HTQT về đào tạo nguồn nhân lực còn chưa gắn với nhu cầu thực tiễn

               Hợp tác quốc tế trong đào tạo nhân lực KHCN cần gắn với việc triển khai nhiệm vụ
           nghiên cứu cụ thể và gắn với ứng dụng thực tế. Chú trọng đào tạo nhân lực cho các ngành
           khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, các lĩnh vực công nghệ ưu tiên, công
           nghệ theo hướng công nghiệp để phát triển công nghệ cao, các ngành công nghiệp có hàm
           lượng tri thức cao nhằm nâng cao tiềm lực KHCN Hiện nay, trình độ phát triển KHCN
           nước ta còn ở mức thấp so với các nước phát triển ở khu vực và thế giới. Vì vậy, việc nhập
           khẩu và chuyển giao công nghệ là cần thiết để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và bảo
           đảm QPAN. Nhà nước cần xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp hợp tác
           nghiên cứu với các đối tác, tập đoàn, viện nghiên cứu quốc tế… để chia sẻ thông tin, nâng

                                                447
   444   445   446   447   448   449   450   451   452   453   454