Page 448 - Maket 17-11_merged
P. 448

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

           phí hằng năm bố trí hạn chế cho nên các mục tiêu về số lượng đạt thấp. Các chương trình
           khuyến nông tuy đã có các nội dung về ƯDCNC trong nông nghiệp (như sản xuất theo
           quy trình Vietgap) nhưng nội dung còn thiếu, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển nông
           nghiệp ƯDCNC. Nguồn cán bộ khuyến nông còn thiếu, chưa có các hoạt động khuyến
           khích và kiểm soát nông sản ứng dụng các nội dung được tập huấn vào sản xuất.

               Hạn chế về ngân sách đầu tư và đầu tư của doanh nghiệp và phát triển KHCN
           tại khu vực nông thôn

               Về đầu tư công cho nghiên cứu KHCN hiện nay, giai đoạn 2005-2015 chiếm khoảng
           2,3% tổng vốn đầu tư cho toàn ngành NN&PTNT và tương đương 13% tổng kinh phí sự
           nghiệp khoa học của cả nước. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đầu tư
           cho nghiên cứu và phát triển ngành nông nghiệp tương đương 0,2% GDP nông nghiệp,
           trong khi đó ở Braxin là 1,8% và Trung Quốc là 0,5% . Chính phủ đã tăng đầu tư cho
                                                           3
           nông nghiệp gần 50% trong giai đoạn 2013-2017. Tăng trưởng của chi tiêu nghiên cứu
           nông nghiệp trong giai đoạn này chậm hơn đáng kể. Phần lớn ngân sách nhà nước cho
           nông nghiệp được phân bổ cho việc phát triển công trình thủy lợi lớn dành cho đất trồng
           lúa (Ngân hàng Thế giới và Chính phủ, 2017). Theo khảo sát về Chỉ số KHCN Nông
           nghiệp (ASTI, 2020), thì với mức độ phát triển nhu của Việt Nam, đầu tư cho nghiên cứu
           KHCN trong nông nghiệp lẽ ra nên ở mức 0,86% GDP Nông nghiệp, tức là cần gấp 4 lần
           so với hiện nay . Nhìn chung, đầu tư cho công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao
                        4
           công nghệ ở nước ta còn thấp, chưa tới ngưỡng nên chưa tạo ra được sản phẩm KHCN
           mang tính đột phá.
               Đối với chính sách xã hội hoá hoạt động KHCN NN và NT thì hiện có khoảng 7%
           doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận từ kết quả KH&CN từ nguồn ngân sách nhà
           nước; hơn 90% doanh nghiệp còn lại tự đầu tư nghiên cứu hoặc nhận chuyển giao kết
           quả KH&CN bằng toàn bộ nguồn vốn của chính doanh nghiệp. Hiện nay, một số doanh
           nghiệp và DNKHCN đã hình thành trung tâm hoặc viện nghiên cứu và trích thu nhập
           của mình để hình thành quỹ phát triển KH&CN nhằm tạo nguồn tài chính chủ động đầu
           tư cho hoạt động KH&CN, giúp đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất
           lượng, sức cạnh tranh của doanh nghiệp như Viettel, Phenikaa, Vingroup (Linh Chi,
           2020 ).

               Doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn còn hạn chế về số
           lượng và năng lực đổi mới sáng tạo. Số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
           NLTS không nhiều (khoảng 10.085 DN năm 2019, nếu tính tất cả doanh nghiệp tham gia
           chuỗi giá trị nông sản thì tổng số lên đến khoảng 50.000 doanh nghiệp), hơn nữa chủ yếu
           là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đầu tư cho các hoạt động R&D còn hạn chế. Hiện

               (3)   Chris Jackson (WB) Agricultural Research in Vietnam Recent Trends and Emerging Challenges, 2015
               (4)   Viện KHNNVN và IFPRI, Chỉ số KHCN nông nghiệp 2020.

                                                446
   443   444   445   446   447   448   449   450   451   452   453