Page 451 - Maket 17-11_merged
P. 451

CHƯƠNG TRÌNH KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ PHỤC VỤ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

           KHCN chủ yếu thuộc Trung ương cho thấy: trong số 22.313 cán bộ công nhân viên thì số
           người có trình độ trên đại học là 2.509 người, cao đẳng và đại học 11.447 người và dưới
           cao đẳng là 8.357. Trong số các cán bộ có trình độ tiến sĩ và phó tiến sĩ chỉ có 15,1% là
           nữ, cũng trong số các cán bộ có trình độ học vấn cao này chỉ có 19,9% giữ các chức vụ
           lãnh đạo. Tuổi trung bình của cán bộ khoa học có học vị, học hàm khá cao. Bình quân
           chung là 57,2 tuổi trong đó giáo sư là 59,5 tuổi và phó giáo sư là 56,4 tuổi. Số cán bộ cán
           học vị, học hàm cao ở tuổi 50 chỉ chiếm 12% trong khi đó tuổi từ 56 trở lên là 65,7%,
           riêng giáo sư chiếm tới 77,4% và phó giáo sư chiếm 62%. Khi phân chia theo lứa tuổi các
           cán bộ KHCN có học hàm thì phần đông giáo sư có tuổi trên 60 và phó giáo sư có tuổi từ
           56 đến 60. Khi một bộ phận lớn các cán bộ khoa học chủ chốt đang về già và sẽ không
           có khả năng làm việc thì đội ngũ cán bộ trẻ thay thế lại chưa được chuẩn bị bồi dưỡng
           đào tạo. Hẫng hụt đội ngũ cán bộ KHCN đầu ngành sẽ diễn ra trong tương lai rất gần.
               5.1.2 Việc phân bố lực lượng KHCN chưa hợp lý

               Sự phân bố lực lượng lao động mất cân đối giữa các ngành, các khu vực giữa các
           vùng, giữa các thành phần kinh tế đã gây ra hậu quả xấu cho quá trình phát triển, càng
           làm sâu sắc thêm sự chênh lệch và phát triển giữa các vùng, các ngành. Một điều mà
           nhiều người nhìn thấy rất rõ là trong nhiều năm, đặc biệt sau khi chuyển sang kinh tế thị
           trường thì các ngành khoa học cơ bản bị xem nhẹ và dường như đang bị bỏ rơi. Đó là
           một cách nhìn rất thiển cận và hậu quả của nó sau một số năm thấm dần sẽ gây tác hại
           nghiêm trọng. KHCN là một hệ thống, cũng như một nền kinh tế nếu không có hạ tầng
           cơ sở tốt thì không thể phát triển được. Trong khoa học nếu chỉ coi trọng những ngành
           ứng dụng có lãi nhanh mà coi nhẹ khoa học cơ bản rút cục sẽ đưa khoa học đến chỗ bế
           tắc và không có đủ năng lực tiếp thu làm chủ các lĩnh vực KHCN mới.

               5.1.3 Chưa có sự minh bạch rõ ràng giữa hoạt động nghiên cứu KHCN và hoạt
           động kinh tế
               Nhiều bất cập giữa KH-CN và hoạt động kinh tế ở VN. Mối quan hệ thống nhất
           giữa hoạt động KHCN và hoạt động kinh tế là cơ sở quan trọng bảo đảm cho sự phát triển
           của một quốc gia. Tuy nhiên, ở VN hiện nay giữa hoạt động KHCN và hoạt động kinh
           tế lại bộc lộ những bất cập rõ rệt: i) Viện nghiên cứu, các trường đại học thường mang
           nặng tính hàn lâm và ít gắn bó hữu ích với các tổ chức kinh tế. Ngoài mối quan hệ lỏng
           lẻo giữa cơ quan nghiên cứu và các đơn vị kinh tế còn một khía cạnh nữa là bản thân hệ
           thống cơ quan nghiên cứu vẫn thiếu phương pháp luận tiếp cận có hiệu quả tới hệ thống
           kinh tế. Ở đây đòi hỏi sự hợp tác, trao đổi qua lại nhiều vòng giữa các nhà khoa học và
           đại diện của các khu vực sản xuất; ii) Cơ cấu của đội ngũ hoạt động KHCN hiện mất cân
           đối đáng kể so với cơ cấu nền kinh tế. Trong các lĩnh vực công nghệ tiên tiến, việc khắc
           phục khoảng trống bằng cách chuyển các nhà nghiên cứu khoa học cơ bản sang cũng
           chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi tối thiểu; iiii) Thực tế đổi mới vừa qua đã xuất hiện


                                                449
   446   447   448   449   450   451   452   453   454   455   456