Page 454 - Maket 17-11_merged
P. 454

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

               i) Cải cách cơ chế quản lý KHCN còn chậm và chưa hiệu quả

               Cải cách cơ chế quản lý KH&CN - đặc biệt là về tài chính, tự chủ, tự chịu trách
           nhiệm và sử dụng nhân tài - tiến triển chậm. Chi tiêu ngân sách phân tán và không hiệu
           quả. Năng lực của các nhà khoa học còn hạn chế, thiếu những nhà khoa học hàng đầu; số
           lượng bằng sáng chế và số lượng tác phẩm được công bố trên các tạp chí quốc tế có danh
           tiếng bị hạn chế. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế về năng lực khoa học, công nghệ
           và đổi mới sáng tạo chính là cơ cấu phối hợp trong lĩnh vực khoa học, công nghệ và đổi
           mới sáng tạo còn tương đối phức tạp và chồng chéo (A. P. Nguyễn, 2019). Sự hạn chế
           về cơ chế chính sách sách hỗ trợ nghiên cứu chuyển giao và ứng dụng KH&CN phục vụ
           NTM thể hiện ở một số chính sách cụ thể như:
               - Chính sách hỗ trợ HTX, trang trại, nông hộ đầu tư nông nghiệp ứng dụng CNC:
           Để phát triển nông nghiệp công nghệ cao không ít khó khăn, thách thức đang đặt ra như:
           nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nguồn nhân lực, đất đai, thị
           trường tiêu thụ sản phẩm nông sản, đặc biệt là cơ chế, chính sách cho nông nghiệp công
           nghệ cao phát triển (Hải Ninh, 2016). Các chính sách hỗ trợ HTX, nông dân, chủ các
           trang trại tiếp cận đất đai còn nhiều hạn chế, cụ thể: (i) Giới hạn đối tượng được chuyển
           nhượng đất nông nghiệp trong cùng địa bàn xã, phường; (ii) Việc đánh thuế hộ vượt hạn
           mức sử dụng đất nông nghiệp không khuyến khích tích tụ ruộng đất vào tay người sản
           xuất giỏi; (iii) Đa số các chủ trang trại gặp khó khăn ở việc xác nhận, chứng nhận và cấp
           sổ đỏ sau trao đổi mua bán khi phải mua quyền sử dụng đất từ nhiều đối tượng khác nhau
           với nhiều loại đất khác nhau; (iv) Thủ tục chứng thực hồ sơ chuyển nhượng đất nông
           nghiệp phức tạp, phải trả nhiều thuế, phí.
               - Chính sách tín dụng ưu đãi tín dụng cho ứng dụng CNC trong nông nghiệp: Việc
           tiếp cận nguồn vốn tín dụng của NHTM còn khó khăn, chủ yếu do tài sản đảm bảo để
           vay vốn hiện vẫn chỉ là đất nông nghiệp có giá trị thấp, trong khi tài sản hình thành trên
           đất của các dự án nông nghiệp ứng dụng CNC là rất lớn, nhưng lại chưa được cấp giấy
           chứng nhận quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất để làm thủ tục đăng ký giao dịch bảo
           đảm, thế chấp để vay vốn ngân hàng. Các nguồn tài chính khác như các Quỹ rủi ro, Quỹ
           bảo lãnh tín dụng còn thiếu các văn bản pháp luật hướng dẫn để cấp tín dụng cho các DN,
           HTX nông nghiệp ứng dụng Công nghệ cao. Các tiêu chí xác định dự án nông nghiệp
           ứng dụng CNC còn chưa rõ ràng, danh mục CNC ứng dụng trong nông nghiệp cũng còn
           khá chung chung, chưa có tiêu chí, định lượng cụ thể, trong khi đó vẫn chưa quy định cơ
           quan nào xác nhận các tiêu chí đó của dự án. Điều này gây cản trở việc tiếp cận nguồn
           vốn ưu đãi.  Số lượng các khu, vùng Nông nghiệp ứng dụng CNC còn hạn chế, trong khi
           trình tự, thủ tục xác nhận khu, vùng nông nghiệp ứng dụng CNC chưa được hướng dẫn
           cụ thể, tại nhiều địa phương, công tác quy hoạch vùng vẫn chưa rõ.
               - Chính sách ưu đãi tiếp cận đất đai cho doanh nghiệp ứng dụng CNC: Quy trình và
           thủ tục tiếp cận đất đai còn nhiều vướng mắc: mặc dù chính sách hỗ trợ liên quan đến đất

                                                452
   449   450   451   452   453   454   455   456   457   458   459