Page 45 - 60 nam chu nghia & noi niem
P. 45

60 NĂM, CHỮ NGHĨA VÀ NỖI NIỀM                            LÊ TRÚC KHANH
           tản. Rồi cuộc trốn chạy tự dừng lại khoảng sau một ngày, ai về nhà nấy
           và cũng chẳng ai biết tin tức “Thổ dậy” xuất phát từ đâu!
              Hiệp định Genève 1954 đã làm thay đổi cuộc sống xã hội miền Nam,
           mà Bến Tre không là ngoại lệ. Làng quê đã có những năm tháng hết sức
           thanh bình, dù ngắn ngủi. Đây là thời kỳ vang dội nhất của những bài hát
           như: Gạo trắng trăng thanh, Lúa mùa duyên thắm, Khúc ca ngày mùa,
           Trăng rụng xuống cầu, Khúc hát ân tình...
              Dân chúng ở các thành phố lớn như Sài Gòn, Chợ Lớn  hoặc các tỉnh
           lân cận nườm nượp về Bến Tre. Có người về  thăm thân nhân rồi đi,
           nhưng cũng có gia đình về chọn mua đất, dựng nhà định sống lâu dài.
           Trẻ con miền quê hình như “dị ứng” với những người thành phố. Họ mặc
           quần áo lịch sự, đẹp đẽ quá trong khi ở đây thì trẻ con đầu trần chân đất,
           tóc cháy vàng khét nắng, áo quần lôi thôi, lếch thếch. Do vậy, dân thành
           phố về quê trở thành “nạn nhân bất đắc dĩ” của những lời mai mỉa: áo
           thì “áo chim cò”, ai lỡ mang kính đen thì là “Thòi lòi lên bờ”!. Có những
           cô gái, tóc bỏ đuôi gà, kẹp ba lá, có người mái tóc dài ngang lưng... thì
           bọn trẻ con chạy theo cả đám như coi hát, vỗ tay reo hò “Ô, con sóc Việt
           Nam!”. Trò vui “vô duyên” đó làm náo động cả làng quê, từ lúc các “nạn
           nhân” xuất hiện cho đến khi họ về tới nhà mình thì đám đông tự phát kia
           mới chịu giải tán, ai về chỗ nấy! Và những thằng bé quê như tôi lại có
           được thêm những trận cười vui.
              Không khí rộn ràng là những ngày cận tết. Dọc đường quê, người dân
           tự phát dựng lên ở bãi đất trống những giàn cao bằng tre tạm bợ để làm
           nơi phơi bánh tráng. Các lò bánh cũng đã nổi lửa từ đầu tháng Chạp.
           Vậy là anh em tôi lại có cơ hội đứng kế dì Năm hoặc má tôi để chờ được
           ăn những chiếc bánh tráng ngọt, bánh tráng dừa bị lỗi. Cũng có khi, má
           tôi gom lại mớ bìa bánh tráng nem đã được cắt gọn trước khi đóng bánh
           thành cây, để  lên mặt khuôn trên trả (một loại nồi đất thật to dùng đựng
           nước nấu sôi để tráng bánh) hấp lại cho nóng, bìa bánh mềm ra, sau đó
           trộn thêm chút mỡ hành phi cho anh em tôi ăn với nước mắm đã được
           chế biến thơm phức mùi tỏi, ớt. Những buổi ăn sáng tuyệt vời đậm hương
           vị quê nhà đó, cho đến hôm nay vẫn còn rưng rưng nỗi nhớ.
              Lại nhớ lan man đến dì Năm, chị ruột của má tôi. Dì có người chồng
           làm thợ mộc. Thời đó, dượng Năm là thợ giỏi số một ở làng Tân Thạch.
           Hầu như những ngôi nhà bằng gỗ xây cất ở làng tôi lúc đó đều có bàn
           tay của dượng. Dượng Năm chẳng những khéo tay mà còn vô cùng kiên
           nhẫn. Tôi từng thấy dượng mất cả tháng trời, một mình xẻ mấy cây dừa

                                          48
   40   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50