Page 159 - NRCM2
P. 159

NHẬN RA CHÍNH MÌNH - QUYỂN II                                                                                                     ĐỨC THANH


           lại như thế. Nơi tâm sinh tức gọi là sắc. Biết sắc vốn không, nên                     Danh thể của mỗi pháp chỉ có một (tên) chữ, như “nước” là
           sinh mà chẳng sinh…”  108                                                         danh, “ướt” là thể. “Tâm” là danh, “biết” là thể. Còn nghĩa dụng

               “Phàm khi thấy sắc đều là thấy tâm.” Như mắt tiếp xúc với                     có nhiều. Như lóng thì trong, quậy thì đục… là nghĩa dụng của
           sắc trần sẽ sinh cái biết của mắt. Vậy, thấy sắc thì biết ta có cái               nước. Tham, sân, si, từ, nhẫn, thiện, ác… là nghĩa dụng của tâm.
           hay thấy (hay biết), cái hay biết là dụng của chân tâm.                                Ví dụ: Cùng là nước nhưng đường hòa tan gọi là nước
               Thể của chân tâm rỗng lặng, chiếu soi. Do không hình                          đường, muối hòa tan gọi là nước muối, tên thì khác nhau nhưng
           tướng nên không phải là vật gì cả, gọi là tâm cũng là gượng đặt                   thể vẫn là nước.
           tên thôi, nên nói “Tâm chẳng phải là tâm”.                                             Cũng vậy, thể của tâm là “biết”: Lòng tham dấy khởi có cái

               Dụng của chân tâm như gương sáng, nhân có sắc (cảnh)                          biết mê mờ của tham, lòng từ dấy khởi có cái biết trí tuệ của
           đối trước mà hiện bóng, nên nói “Nhân sắc mà có tâm”.                             từ bi. Vì vậy khi hành giả nhận ra thể rồi mới biết, nghĩa dụng
                                                                                             không rời tâm, danh không rời thể. Ngay nơi danh nhận ra thể,
               “Nơi tâm sinh tức gọi là sắc”. Sắc ở đây nên hiểu là sắc tâm.
           Đối cảnh tâm sinh khởi, tức là thọ, tưởng, hành, thức sinh khởi.                  ngay thể biết được danh để gọi. Biết biển là nước, dù có nổi
                                                                                             trăm ngàn lượn sóng, chúng ta vẫn biết rõ ràng rằng: Không
               “Biết sắc vốn không, nên sinh mà chẳng sinh”. Biết sắc tâm                    một lượn sóng nào ngoài nước mà có. Ngay nơi sóng thấy được
           (thọ, tưởng, hành, thức) vốn không có tự tánh, như bóng trong                     nước, không cần bỏ sóng tìm nước.
           gương. Bóng trong gương là có, sao ta nắm bắt chẳng được?
           Nếu bảo là không, sao thấy có bóng hiện”, nên nói “sinh mà                             Cũng vậy, ngay nơi tâm tham, tâm sân… chúng ta biết rõ
           chẳng sinh” là vậy đó!                                                            mình có cái tâm (cái biết), không phải bỏ tâm tham, tâm sân…
                                                                                             tìm tâm thanh tịnh sáng suốt được. Tâm ấy đã sẵn, nhưng vì
               + Thiền sư Khuê Phong Tông Mật nói: “… Lấy đây mà                                                                                109
           xét danh thể của nước, mỗi cái chỉ một chữ, ngoài ra đều là                       pha máu tham, sân nên thành tâm tham, tâm sân…
           nghĩa dụng, danh thể của tâm cũng vậy. Một chữ “ướt” gồm                               + Vọng tưởng không thật. Nó là cái bóng qua rồi mất, nhận
           thâu trong đục,… muôn dụng, muôn nghĩa trong đó. Một chữ                          nó là mình nên tạo nghiệp luân hồi khổ đau. Nếu không nhận
           “biết” (tri) cũng bao gồm tham, sân, si, từ, nhẫn, thiện, ác, khổ,                nó là mình thì nó khởi bao nhiêu để cho nó khởi, mình vẫn ngồi
           lạc, muôn dụng, muôn nghĩa nơi ấy.”                                               an nhiên biết rõ từng tên một không lầm. Vọng tưởng chợt qua


           108  “…Phàm khi… chẳng sinh…” Phật Tâm Luận, trang 141-142, Hòa thượng            109   “…  Lấy  đây…  tâm  sân...”  Nguồn thiền giảng giải,  trang  276-277,    Hòa
           Thích Phước Hảo dịch, Nxb Tôn giáo Hà Nội 2006.                                   thượng Thích Thanh Từ,  Nxb Tôn giáo 2002.


                                        158                                                                                159
   154   155   156   157   158   159   160   161   162   163   164