Page 72 - SCK Mot so van de ve cuong che hanh chinh
P. 72

thực hiện theo quy định của pháp luật.

                            Trường hợp người bị áp giải có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi chống

                     người thi hành công vụ, cán bộ đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp
                     giải phải báo cáo ngay người có thẩm quyền để ra quyết định tạm giữ người theo

                     thủ tục hành chính đối với người đó.

                            Cán bộ áp giải phải giám sát, quản lý chặt chẽ người bị áp giải, cảnh
                     giác, chủ động, kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; không

                     được tùy tiện giải quyết các yêu cầu của người bị áp giải trong khi đang tiến
                     hành áp giải.

                            Tuy nhiên, pháp luật quy định về thủ tục áp giải người vi phạm chưa cụ

                     thể, rõ ràng. Điều 26 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP chưa thể hiện được toàn bộ
                     việc áp giải như tên gọi của điều luật này. Có ý kiến cho rằng, thủ tục áp giải bắt
                     đầu bằng việc người có thẩm quyền ra quyết định về việc áp giải người vi phạm

                     theo  thủ  tục  hành  chính  bằng  văn  bản  theo  khoản  3  Điều  3  Nghị  định  số
                     112/2013/NĐ-CP. Khi tiến hành áp giải, người có thẩm quyền đang thi hành

                     công vụ thực hiện việc áp giải phải tiến hành các hoạt động được quy định từ
                     Điều 26 đến Điều 29 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP. Trong khi đó, một số ý
                     kiến khác lại cho rằng, thủ tục thực hiện việc áp giải chỉ gồm các quy định từ

                     Điều 26 đến Điều 29 Nghị định số 112/2013/NĐ-CP, trong đó người có thẩm
                     quyền đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải chỉ cần lập biên bản áp giải

                     có cả nội dung giao nhận như quy định tại Điều 28 Nghị định số 112/2013/NĐ-
                     CP hoặc chỉ cần lập biên bản bàn giao, nhận người bị áp giải. Việc pháp luật quy
                     định về ra quyết định áp giải người vi phạm; giao nhận người bị áp giải; lập biên

                     bản áp giải; lập biên bản về việc người vi phạm bỏ trốn được thể hiện ở các
                     chương, mục khác nhau, dẫn đến nảy sinh cách hiểu không thống nhất trong quá

                     trình áp dụng pháp luật.

                            Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể trường hợp được
                     sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ trong quá trình áp giải người vi phạm. Khoản 1

                     Điều 129 Nghị định 112/2013/NĐ-CP quy định: “Trường hợp người bị áp giải
                     có hành vi chống đối thì cán bộ áp giải giải thích quy định của pháp luật, yêu
                     cầu họ chấp hành quyết định; trường hợp cần thiết cán bộ áp giải có quyền sử

                     dụng vũ lực, trói khóa tay, chân, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ theo quy định
                     của  pháp luật để  khống  chế  vô hiệu hóa  hành  vi  chống  đối của  người  bị áp

                     giải”, như vậy, việc sử dụng vũ lực, vũ khí, công cụ hỗ trợ có thời điểm bắt đầu
                     là từ khi người có thẩm quyền xác định đâu là “trường hợp cần thiết” và có thời

                     điểm kết thúc là khi đã khống chế vô hiệu hóa hành vi chống đối của người bị áp


                                                                 68
   67   68   69   70   71   72   73   74   75   76   77