Page 46 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 46

45


                  cấp cứu đi bệnh viện, C thò tay vào cặp của anh A lấy đi 2 triệu đồng và bỏ đi.

                  Còn D phát hiện có một hộp giấy bằng bao thuốc lá rơi ra tại nơi xảy ra tai nạn
                  liền nhặt bỏ túi. Về nhà D mở ra xem mới biết đó là 1 cây vàng 9999. Trong

                  trƣờng hợp này, cả C và D phạm  tội  nhƣng  không  có  đồng  phạm  vì  mỗi
                  ngƣời phạm tội theo ý riêng của mình.

                         Trong đồng phạm, có thể có đủ bốn loại hành vi tổ chức, xúi giục, thực

                  hành, giúp sức tƣơng ứng với bốn vai trò của những ngƣời trong đồng phạm
                  hoặc không và cũng có thể một ngƣời thực hiện nhiều hành vi để đảm nhận
                  nhiều vai trò khác nhau, có thể tham gia từ đầu hoặc tham gia khi tội phạm đã

                  xảy ra và chƣa kết thúc trên thực tế, nhƣng không thể có việc tham gia sau khi
                  tội phạm đã kết thúc.

                         Về mặt pháp lý, khái niệm tội phạm hoàn thành là chỉ hành vi phạm tội

                  đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm nhất
                  định đƣợc quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự khái niệm tội

                  phạm  kết thúc  để  chỉ tội phạm  không đƣợc thực  hiện trong thực tế nữa  mà
                  không kể lý do gì. Về mặt lý luận, vấn đề đồng phạm xuất hiện sau khi tội
                  phạm xảy ra nhƣng chƣa kết thúc là rất phức tạp.


                         Khoa học luật Hình sự Việt Nam chia tội phạm thành hai loại: Loại có
                  cấu thành tội phạm vật chất và loại có cấu thành tội phạm hình thức. Đối với
                  loại tội phạm có cấu thành vật chất, hành vi phạm tội phải gây ra hậu quả thì

                  mới đƣợc coi là hoàn thành. Đối với tội có cấu thành hình thức, hậu quả tuy
                  không phải là dấu hiệu bắt buộc của mặt khách quan nhƣng việc xác định hậu

                  quả có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt.

                         Quan hệ nhân quả trong đồng phạm là dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp
                  (quan hệ nhân quả trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là

                  nguyên nhân). Khi tội phạm đƣợc thực hiện với sự cố ý cùng tham gia của nhiều
                  ngƣời thì mỗi hành vi trái pháp luật của từng ngƣời đồng phạm đều có khả năng
                  thực tế trực tiếp làm phát sinh hậu quả. Trong trƣờng hợp hành vi của những

                  ngƣời đồng phạm chƣa có khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả thì quan hệ
                  nhân quả chỉ hình thành khi có sự kết hợp các hành vi đó với nhau thành một thể

                  thống nhất. Ví dụ: A vì có thù tức với H, nên đã rủ B, C cùng đánh H để “dạy cho
                  H một bài học”. B và C đồng ý. A, B, C cùng bàn bạc, lập kế hoạch để sớm hành
                  động. Khi biết H có phiên trực phải về muộn, A, B, C đã chờ sẵn H ở đầu làng.

                  Khi  H  vừa  bƣớc  tới,  A  lập  tức  dùng  côn  đánh  mạnh  vào  chân  H,  H  ngã  qụy
                  xuống, A tiếp tục đánh vào đầu và lƣng H; C hai tay giữ chặt H, còn B cầm dao

                  đâm nhiều nhát vào những vị trí khác nhau trên ngƣời H. Kết quả, H chết do vết
   41   42   43   44   45   46   47   48   49   50   51