Page 80 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 80
79
thế giới, chúng ta thấy, khái niệm ngƣời đồng phạm chƣa đƣợc chú ý đúng mức
mà chỉ chú ý đến từng loại ngƣời đồng phạm cụ thể. Ví dụ: Quốc triều hình
luật không có quy phạm định nghĩa về ngƣời đồng phạm mà chỉ có quy định về
ngƣời đồng phạm là thủ phạm, chủ mƣu, kẻ tòng phạm.
Các văn bản pháp luật hình sự do Nhà nƣớc ta ban hành từ sau Cách
mạng tháng tám cho đến trƣớc thời điểm Bộ luật hình sự của nƣớc ta ra đời
cũng không đƣa ra khái niệm về ngƣời đồng phạm mà chỉ có quy định lúc đầu
là chính phạm, tòng phạm, sau là chủ mƣu, cầm đầu, chỉ huy, ngƣời xúi giục,
ngƣời tham gia, ngƣời giúp sức.
Nhƣ vậy, ngƣời đồng phạm không những phải thỏa mãn các điều kiện
của chủ thể tội phạm, mà còn phải thỏa mãn dấu hiệu cố ý tham gia vào việc
thực hiện tội phạm với ngƣời khác. Căn cứ vào thực tiễn đấu tranh chống tội
phạm, khoản 2 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 đã chia những ngƣời đồng
phạm thành bốn loại, bao gồm: ngƣời thực hành, ngƣời tổ chức, ngƣời xúi
giục, ngƣời giúp sức. Nhìn chung, những đặc điểm chủ quan ở những ngƣời
đồng phạm là giống nhau, vì vậy những đặc điểm thuộc phƣơng diện khách
quan trở thành tiêu chuẩn cơ bản phân biệt những loại ngƣời đồng phạm.
1. Người thực hành
Trong pháp luật hình sự nƣớc ta từ xƣa đến nay, ngƣời thực hành trong
đồng phạm cùng đã đƣợc ghi nhận với nhiều tên gọi khác nhau. Quốc triều
hình luật gọi ngƣời thực hành là thủ phạm:“Những kẻ xúi giục cho người ta
không biết là phạm pháp, hay là biết phép mà cứ xúi giục họ làm trái phép,
cũng là để cho người ta phạm pháp rồi bất ngờ tố cáo hay là để người khác
bắt, hay tố cáo, chủ ý để lấy thưởng hay hiềm khích mà xúi giục để cho người
ta phạm tội, thì cũng bị xử như người phạm pháp”.
Từ khi đất nƣớc đƣợc hoà bình thống nhất vào năm 1975, Nhà nƣớc ta
đã chú trọng hoàn thiện hoạt động của Bộ máy chính quyền mới trên mọi lĩnh
vực, vì vậy công tác lập pháp và hành pháp cũng đƣợc quan tâm đầu tƣ và phát
triển hơn thời kỳ trƣớc. Trong giai đoạn này, nhiều sách báo, công trình nghiên
cứu pháp lý có liên quan đến đồng phạm và ngƣời thực hành trong đồng phạm
đã xuất hiện với nhiều góc nhìn, khía cạnh nghiên cứu khác nhau gợi mở cho
Khoa học pháp lý những cơ sở để tiếp tục hoàn thiện những vấn đề lý luận
cũng nhƣ những quy định thực tiễn liên quan đến đồng phạm và ngƣời thực
hành trong đồng phạm.
Tuy nhiên, các văn bản pháp luật thời kỳ này chƣa đƣa ra một khái