Page 81 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 81
80
niệm pháp lý cũng nhƣ các dấu hiệu đặc trƣng của ngƣời thực hành trong đồng
phạm mà mới chỉ đƣa ra tên gọi của loại đồng phạm này. Chỉ đến lần pháp điển
hoá lần thứ nhất năm 1985, Bộ luật hình sự đầu tiên của nhà nƣớc ta mới ghi
nhận chính thức khái niệm ngƣời thực hành trong đồng phạm:“Người thực
hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm”.
Kể từ sau Bộ luật hình sự năm 1985, khái niệm và các dấu hiệu pháp lý
về ngƣời thực hành trong đồng phạm đã đƣợc nhiều nhà khoa học đề cập,
nghiên cứu và đã có rất nhiều khái niệm đƣợc đƣa ra và khái niệm này tiếp tục
đƣợc hoàn thiện trong cuốn:“Mô hình lý luận về Bộ luật hình sự Việt Nam”:
Người thực hiện là người thực hành toàn bộ hay một phần hành vi phạm tội
được quy định trong các điều luật cụ thể của phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự.
Bộ luật hình sự năm 1999 và năm 2015 ra đời, một lần nữa khẳng định
quan điểm của luật Hình sự Việt Nam về chế định đồng phạm trong Bộ luật
hình sự năm 1985. Tại khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Tức là, bằng hành vi
của mình, ngƣời thực hành thực hiện những hành vi đƣợc mô tả trong cấu
thành tội phạm.“Trực tiếp thực hiện tội phạm” có thể đƣợc coi là đặc điểm đặc
trƣng của ngƣời thực hành, phản ánh vai trò và mối quan hệ của ngƣời thực
hành đối với việc thực hiện một tội phạm (cố ý) cụ thể. Ngƣời thực hành chính
là ngƣời trực tiếp thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm cụ
thể. Hành vi của ngƣời thực hành có mối quan hệ trực tiếp đối với hành vi
đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể mà không qua một ngƣời khác
là“cầu nối” có tác động trực tiếp đối với việc thực hiện hành vi đƣợc mô tả
trong cấu thành tội phạm cụ thể. Hành vi của họ chỉ có thể là hành vi thỏa mãn
một phần hoặc toàn bộ dấu hiệu hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm
cụ thể.
Nhƣ vậy,“trực tiếp thực hiện tội phạm ” theo nghĩa này còn là đặc điểm
để phân biệt ngƣời thực hành với những ngƣời đồng phạm khác. Những ngƣời
đồng phạm khác không trực tiếp thực hiện tội phạm, họ chỉ có mối quan hệ
gián tiếp đối với việc thực hiện hành vi đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm cụ
thể. Bằng hành vi tổ chức, xúi giục hay giúp sức việc thực hiện hành vi đƣợc
mô tả trong cấu thành tội phạm cụ thể của ngƣời thực hành mà họ đã có tác
động, ảnh hƣởng đến việc thực hiện tội phạm cụ thể.“Trực tiếp thực hiện tội
phạm” còn có thể đƣợc hiểu là tự mình thực hiện tội phạm, tức là thực hiện tội
phạm không qua hành vi của ngƣời khác.