Page 42 - SCK Mot so va de ve thua ke theo quy dinh cua phap luat VN
P. 42
tuyên bố di chúc vô hiệu và di sản được chia cho những người thừa kế theo luật
của người để lại di sản.
Hành vi thứ hai: Hành vi giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che
giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để
lại di sản
Hành vi giả mạo di chúc là hành vi của một người đã lập một di chúc theo ý
chí của mình nhằm thay thế di chúc của người để lại di sản hoặc để cho những
người khác tưởng lầm rằng người chết có để lại di chúc.
Hành vi sửa chữa di chúc là việc người thừa kế sửa chữa nội dung của di
chức hoặc xóa bỏ nhiều từ trong di chúc, những từ này ảnh hưởng tới quyền lợi
của người thừa kế hoặc người thừa kế viết thêm vào trong di chúc số người được
hưởng, số tài sản được hưởng. Hay nói cách khác sửa chữa di chúc là hành vi của
một người trong việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung của di chúc mà
người để lại di sản đã lập và làm cho nội dung của di chúc không đúng với ý chí
của người lâp di chúc. Hành vi này không những xâm phạm ý chí của người để
lại di sản, mà còn xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế khác cho nên
người có hành vi này sẽ bị không được hưởng di sản thừa kế.
Hành vi hủy di chúc mà người để lại di sản đã lập là hành vi của người thừa
kế tiêu hủy nội dung của di chúc bằng nhiều hình thức khác nhau như xé bỏ, đốt
di chúc, giấu đi, ngâm di chúc vào dung dịch hóa chất… làm cho người khác
không thể đọc, hiểu được nội dung của di chúc.
Khi người có quyền và lợi ích liên quan đến di sản thừa kế cho rằng bản di
chúc được công bố đã bị sửa chữa hoặc người có di sản đó đã bị một trong những
người thừa kế huỷ bỏ với mục đích, động cơ hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản
trái với ý chí của người để lại di sản thì người khởi kiện và người có liên quan đến
nội dung của di chúc có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 621 BLDS năm 2015 thì những
người thừa kế không được quyền hưởng di sản trong các trường hợp nêu trên vẫn
được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó,
nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc. Tức khi lập di chúc, người để lại di
sản đã biết về hành vi của những người thừa kế và vẫn cho những ngời đó được
hưởng di sản, còn nếu không lập di chúc thì coi như những người thừa kế này đã
bị tước quyền hưởng di sản. Hoặc khi đã biết về một trong những hành vi của
40