Page 106 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 106
Tiếng Việt Tuyệt-Vời Đỗ Quang-Vinh
giảng theo quốc văn thì nghĩa là “Vẽ chuyện ra làm chi? Bày
đặt ra làm gì?” hàm ý mỉa-mai, giễu cợt.
Vì vậy mà Nguyễn Khuyến khi qua con phố này đã
cảm tác nên bài thơ: “Quá Quân-Công Nguyễn Hữu-Độ Sinh
Từ hữu cảm” như sau:
Lâu đài thử địa hà nguy nguy,
Đệ nhất quận công chi sinh từ,
Công tại tứ thì tập quan đới,
Công khứ quan đới bất phục tập,
Hương hoả tịch tịch hoà ly ly,
Đãn kiến đệ nhị vô danh công,
Triêu tịch huề trượng lai vu tư.
Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự,
Bất tri cửu tuyền thuỳ dữ quy.
dịch thơ:
Đền miếu thờ ai lộng-lẫy thay!
Thờ ông “thứ nhất quận công đây.
Ông còn, mũ áo hàng năm họp,
Không được dự buồn, được dự may.
Ông mất mũ áo không họp nữa,
Lửa hương lạnh ngắt, lúa mọc đầy.
Có ông “thứ nhì không tên đến”,
Sớm hôm chống gậy vào chốn này,
Trên đời suy thịnh thường như vậy,
Biết nay chín suối ông theo ai?
(http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n_Khuy%E
1%BA%BFn_%28ph%E1%BB%91_H%C3%A0_N%E1%B
B%99i%29#T.C3.AAn_ph.E1.BB.91)
105