Page 89 - Sách năm 2022 - Fulltext - hieu final
P. 89

cholesterine. Các tinh thể cholesterine này cũng có thể gây phản ứng viêm mạn, gây vôi

                  hoá loạn dưỡng trong thành túi mật. Lớp thanh mạc không bao giờ bị tổn thương. Đây là
                  hình ảnh điển hình của bệnh bệnh cơ tuyến túi mật [3].

                         Điều này giải thích cho các hình ảnh đặc trưng của BCTTM trên CLVT gồm dày

                  thành túi mật, hình ảnh các xoang RA kém ngấm thuốc, dấu hiệu “chuỗi tràng hạt” (Rosary

                  sign) -  biểu hiện của lớp niêm mạc tăng sinh ngấm thuốc được bọc quanh bởi lớp cơ phì

                  đại không ngấm thuốc sau chích thuốc tương phản, dấu hiệu “ viên gòn” (“cotton ball” sign)

                  - là những nốt mờ màu xám nhỏ ngấm thuốc kém trong lớp cơ dày hoặc có nốt ngấm thuốc
                  của lớp niêm mạc nằm sâu trong lớp cơ niêm phì đại. Giải phẫu bệnh tương ứng của dấu

                  hiệu này là các xoang RA chứa dịch mật, đường kính nhỏ hơn 2mm, không đủ để tạo ra

                  hình ảnh các túi nang rõ ràng trên CLVT [8].

                         Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận các dấu hiệu trên với các kết quả như sau: độ dày

                  trung bình thành túi mật: 6,2 ± 2,5mm, (từ 3,5mm tới 16mm), 57,9% trường hợp có hình
                  ảnh xoang RA, 84,2% có dấu hiệu hình ảnh “chuỗi tràng hạt”, 75,4% có dấu hiệu “viên

                  gòn”. 35,1% trường hợp có kèm sỏi cản quang túi mật, 8,8%  có vôi trong thành túi mật

                  chiếm 8,8%. Tất cả các trường hợp đều có hình ảnh lớp ngoài túi mật còn liên tục, không

                  kèm thâm nhiễm mỡ xung quanh.

                        Trong khi Kim SJ cho rằng dấu hiệu nang trong thành túi mật và sỏi túi mật lại đại

                  diện cho tổn thương lành tính túi mật thì một số tác giả cho rằng thể phân đoạn cũng là yếu

                  tố nguy cơ ung thư túi mật bên cạnh các yếu tố sỏi và viêm mạn tính thành túi mật (là hậu

                  quả  trong  cơ  chế  bệnh  sinh  của  BCTTM)  [7].  Nghiên  cứu  chúng  tôi  ghi  nhận:  54,4%

                  BCTTM thể khu trú, 19,3% BCTTM thể phân đoạn. 35,1% trường hợp có kèm sỏi cản
                  quang túi mật. Dựa trên kết quả giải phẫu bệnh, chúng tôi cũng ghi nhận có 4/57 trường

                  hợp BCCTM có kèm viêm mạn túi mật, chiếm tỷ lệ 7%. Nghiên cứu của nhóm tác giả Kai

                  K. và cs (2013) ghi nhận có 26/97 trường hợp ung thư túi mật có kèm BCTTM. Nhóm

                  nghiên cứu này cũng đưa ra khuyến cáo xem xét phẫu thuật túi mật dự phòng ở những

                  trường hợp có BCCTM, nhất là ở nhóm đối tượng là giới nữ, lớn tuổi [5].




                                                                                                             89
   84   85   86   87   88   89   90   91   92   93   94