Page 113 - Maket 17-11_merged
P. 113

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN

           các năm, tốc độ tăng bình quân đạt 6,9%/năm. Đến nay, vùng Đồng bằng sông Hồng có
           số lượng trang trại nhiều nhất với 8.015 trang trại (chiếm 26,62%); tiếp đến vùng Đông
           nam bộ có 5.792 trang trại (chiếm 19,24%), Trung du miền núi phía bắc có 4.430 trang
           trại (chiếm 14,71%); vùng ĐBSCL có 4.631 trang trại (chiếm 15,38%); vùng Bắc trung
           bộ và Duyên hải nam trung bộ có 3.936 trang trại (chiếm 13,07%); Tây Nguyên là vùng
           có số lượng trang trại thấp nhất cả nước với 3.306 trang trại (chiếm 10,98%). Kinh tế
           trang trại đã ngày càng thể hiện được vai trò trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và
           được coi là xu hướng tất yếu của nền nông nghiệp hiện đại, phân công lại lao động xã
           hội, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và thúc đẩy xây dựng NTM.

               - Chuyển đổi các Tổ, nhóm hợp tác của nông dân: Tính đến hết năm 2020 cả nước
           có 29.987 THT (tăng 19.580 THT so với năm 2008); Trong đó 11.564 THT trồng trọt,
           3.747 THT chăn nuôi, 489 THT lâm nghiệp, 3.923 THT thủy sản, 80 THT diêm nghiệp,
           703 THT nước sạch nông thôn, 9.472 THT tổng hợp. Các THT hoạt động đều dựa trên
           mục tiêu chính là mang lại lợi nhuận cho các thành viên tham gia vào THT; hỗ trợ thành
           viên tiêu thụ sản phẩm; vật tư dịch vụ sản xuất với chất lượng tốt và giá hợp lý nâng cao
           chất lượng hàng hóa và nâng cao thu nhập cho các thành viên, góp phần xóa đói, giảm
           nghèo; đồng thời là cầu nối giữa chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội với nông dân.
               - Chuyển đổi HTX nông nghiệp: Đến hết tháng 6/2021, cả nước có 17.776 HTX
           (HTX)  nông nghiệp và 78 Liên hiệp HTX nông nghiệp. So với thời điểm tháng 6/2017
                 30
           khi bắt đầu thực hiện Đề án 15.000 HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả của Chính
           phủ, số lượng HTX nông nghiệp cả nước đã tăng 6.088 HTX (khi đó cả nước có 11.688
           HTX nông nghiệp). Như vậy trong 04 năm qua, bình quân mỗi năm cả nước tăng khoảng
           1.500 HTX. Tốc độ tăng về số lượng này cao gấp hơn 3 lần giai đoạn trước đó (2012-
           2016). Tỷ lệ HTX được đánh giá là hoạt động có hiệu quả  chiếm 68% so với tổng số
                                                               31
           HTX nông nghiệp toàn quốc (cao gần gấp 2 lần trước đây). HTX nông nghiệp bước đầu
           trở thành là một mắt xích quan trọng trong hình thành và phát triển chuỗi liên kết sản
           xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản; là tiền đề quan trọng thúc đẩy hình thành các tổ hợp
           sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản quy mô vừa và nhỏ tại nhiều vùng SXNN tập trung.
               - Chuyển đổi doanh nghiệp nông nghiệp: Lực lượng doanh nghiệp nông nghiệp
           ngày càng lớn mạnh và tâm huyết đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn hơn, đang trở
           thành nòng cốt trong chuỗi giá trị nông sản. Số lượng doanh nghiệp NLTS tăng từ 2.397
           doanh nghiệp năm 2007 (chiếm 1,61% tổng số doanh nghiệp cả nước) lên 7.033 doanh
           nghiệp năm 2017 (tăng 2,93 lần so với năm 2007) và lên trên 13.000 năm 2020 (chiếm
           khoảng 1,6%). Bên cạnh sự đầu tư, phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, một số

               (30)    Có 6.646 HTX trồng trọt, 1.325 HTX chăn nuôi, 202 HTX lâm nghiệp, 964 HTX thủy sản, 33 HTX diêm
           nghiệp, 41 HTX nước sạch nông thôn, 7.594 HTX tổng hợp; có 1.160 HTX nông nghiệp yếu kém, đã ngừng hoạt động
           nhưng chưa giải thể.
               (31)    Theo hướng dẫn Thông tư 09/TT-BNN-KTHT..

                                                112
   108   109   110   111   112   113   114   115   116   117   118