Page 104 - NRCM1
P. 104

NHẬN RA CHÍNH MÌNH

           lai với sự bắt đầu từ một danh sắc mới. Song song quá
           trình  tạo  tác  đó  thì  cơ  thể  cũng  già  yếu  đi  theo  thời
           gian. Tức là tiến trình Lão-Tử (tử) xảy ra nhƣ một hệ
           quả đƣơng nhiên.
                 * Tìm hiểu các chi phần trong 12 nhân duyên.
                 1- Vô minh
                 Tự tánh của chúng sinh là giác, không phải vô tri

           nhƣ cây, nhƣ đá, nên gọi là tánh giác. Tánh giác ấy là
           diệu, nghĩa là duyên khởi ra các sự vật. Tánh giác ấy là
           minh, nghĩa là nhận biết sự vật. Tánh giác thƣờng diệu
           thƣờng minh. Cái diệu của tánh giác luôn luôn là cái
           minh, nên gọi tánh giác diệu minh.     82
                 “Tính giác hẳn là minh mà vọng làm minh giác”
           Nghĩa  là  tánh  giác  vốn  là  diệu  minh, song  tính  minh
           này chẳng hay tự giữ nên chuyển đổi sinh ra sở. Hoặc
           lấy  minh  làm  giác,  lấy  nghiệp  tƣớng  làm  tự  thể  của
           tánh giác, mất đi cái bản diệu nên nói là vọng. Tánh
           giác  rất  chân  nên  không  phân  biệt,  trong  cái  không
           phân biệt vắng lặng thƣờng trụ, đó là diệu; trong cái vô
           phân biệt mà mờ mịt bất giác, đó là vô minh.       83

                 Vô minh là một phạm trù khó hiểu, khó diễn đạt
           khi muốn hiểu đến cội nguồn của nó. Với bộ óc suy
           luận trong thế gian thƣờng nghiệm, ta có thể  hiểu vô
           minh là không sáng suốt, là mê lầm, không hiểu biết
           nhƣ thật về sự vật, hiện tƣợng hiện hữu là do duyên

           82
             “Tự tánh… minh” Kinh Thủ Lăng Nghiêm, trang 283 - Tâm Minh dịch.
           83
             “Tính giác… vô minh”  Kinh Thủ Lăng Nghiêm Trực Chỉ, trang 336, 337 -
           Hòa thƣợng Thích Phƣớc Hảo.
                                                                     103
   99   100   101   102   103   104   105   106   107   108   109