Page 194 - Phẩm Tam Quốc
P. 194

đảm nhiệm chức vụ đó. Vùng đất Kinh châu không yên ổn “giặc giã khắp

               nơi”,  “quân  Thiệu  cản  trở”,  Lưu  Biểu  không  đến  được  Kinh  châu  (Biểu
               không  thể  đến),  đành  phải  “đơn  thương  độc  mã  đến  Nghi  Thành”  (nay  là
               Nghi Thành, Hồ Bắc). Lúc này, Lưu Biểu đã có một quyết sách chính xác,
               dựa vào hào tộc địa phương để bình định Kinh châu. Lưu Biểu đã tìm được
               hai người, một là Khoái Việt người Nam quận, một là Sái Mạo người Tương
               Dương. Sái Mạo nhiều tài, thô lỗ, có hàng trăm thê thiếp, gia sản giàu có. Về
               sau, Sái Mạo còn có quan hệ hôn nhân với nhà Lưu Biểu. Lưu Biểu, là chú

               dượng của vợ Gia Cát Lượng. Khoái Việt túc trí đa mưu, là nhân sĩ Kinh
               châu được Tào Tháo mến mộ nhất. Lời chú dẫn Phó Tử của Lý Hiền trong
               Hậu  Hán  thư.  Lưu  Biểu  truyện  nói,  năm  Kiên  An  thứ  XIII,  Lưu  Tôn  đầu
               hàng, Tào Tháo không tốn một mũi tên hòn đạn nào cũng hạ được Kinh châu,
               Tào Tháo đã viết thư cho Tuân Úc: “Không thích lấy được Kinh châu, chỉ
               thích có Dị Độ” (Khoái Việt là Dị Độ). Điều đó chứng tỏ Tào Tháo cầu hiền

               như khát nước, và cũng cho ta thấy rõ Khoái Việt là người khác thường. Lưu
               Biểu tìm được hai người, coi như công việc đã hoàn thành một nửa.
                  Khoái Việt đề xuất đương lối vừa cương vừa nhu cho Lưu Biểu. Khoái
               Việt cho Lưu Biểu hay, có hai mối họa cho Kinh châu là Viên Thuật và Tông

               tặc. “Tông tặc” chừng là trung tâm đại tộc hào môn, là lực lượng vũ trang vô
               chính phủ, một tổ chức mang tính chất địa phương theo quan hệ của tông tộc.
               Chính chúng đã làm khó dễ khiến Lưu Biểu không vào được Kinh châu. Vậy,
               phải làm gì đây? Khoái Việt nói: “Đối với người bình thường xử sự bằng
               nhân nghĩa, với kẻ loạn dùng quyền mưu. Binh không cốt ở nhiều, quý là

               được lòng dân”. Tức là trị lý Kinh châu bằng hai cách, hiệu triệu bằng đạo
               đức và lấy vũ lực để uy hiếp. Chẳng phải kẻ địch của tướng quân là Viên
               Thuật và Tông tặc sao? Đặc điểm của Viên Thuật là gì? Là “kiêu ngạo, vô
               mưu”. Còn đặc điểm của Tông tặc? Là “đông và tham bạo”, vì vậy cần phải
               diệt Tông tặc trước, sau mới ngăn Viên Thuật. Cách làm cụ thể là “diệt kẻ vô
               đạo, sử dụng người tài năng”. Sứ quân uy đức đã đủ”, mọi người sẽ theo về
               (sẽ  mạnh  lên).  Sau  đó,  sứ  quân  “nam  chiến  Giang  Lăng,  bắc  giữ  Tương
               Dương”, có thể “truyền hịch mà định” cả tám quận Kinh châu. Nếu lúc đó,

               Viên Thuật đem quân đánh tới cũng chẳng hề gì (Công Lộ có tới cũng chẳng
               làm được gì)?

                  Lưu Biểu dùng kế sách của Khoái Việt, để Khoái Việt triệu mười lăm kẻ
               đầu mục Tông tặc tới và “chém đầu thị chúng”. Kết quả “Giang Nam được
               yên”  (Giang  Nam  ngày  đó  thì  nay  là  phía  nam  khu  vực  Lưỡng  Hồ  của
               Trường Giang), Lưu Biểu ngồi giữ Tương Dương (quân ở Tương Dương), về
   189   190   191   192   193   194   195   196   197   198   199