Page 245 - Phẩm Tam Quốc
P. 245
Nhưng ở đây đã có vấn đề, nếu đúng là Tào Tháo chỉ xuống phía đông với
năm ngàn quân, thì vì sao khi Chu Du đưa ba vạn người ngựa đến cứu viện,
Lưu Bị lại “hận là rất ít”? Rõ ràng, binh lực của Tào Tháo ít ra cũng có mười
vạn. Hoặc, lúc Gia Cát Lượng nói, chỉ có năm ngàn, sau đó không ngừng
tăng thêm. Điều đó cần phải có thời gian, vì vậy chiến tranh phải nổ ra vào
tháng mười hai. Còn về địa điểm giao chiến, nhà sử học tỉnh Hồ Bắc đã nói là
“Văn võ Xích Bích”. Trận chiến Xích Bích tức là Bồ Kỳ Xích Bích thì gọi là
“võ Xích Bích”, từ phú của Tô Đông Pha tức là Hoàng Châu Xích Bích thì
gọi là “văn Xích Bích”), không bàn tiếp.
Kỳ thực, chỉ cần đầu mâu của Tào Tháo chỉ vào Tôn Quyền, hoặc Lưu Bị
trừ bỏ Tôn Quyền, hoặc Tôn Quyền trừ bỏ Lưu Bị, Tào Tháo sẽ không khinh
địch đến nhường ấy. Ở trận Tương Dương, Lưu Bị đã là tướng bại trận, chim
sợ cung, với năm ngàn tình binh có thể đối phó được. Nhưng Tôn Quyền thì
lại khác. Gia Cát Lượng từng nói “Tôn Quyền có Giang Đông, đã trải ba đời,
có thế hiểm dân theo, biết dùng người hiền năng”, Tào Tháo không thể không
biết điều này. Vậy, nếu muốn đánh Tôn Quyền, Tào Tháo không thể chỉ có
năm ngàn người. Thực tế thì Tam quốc chí Chu Du truyện đã nói rất rõ: ‘Tào
vào Kinh châu, Lưu Tôn đưa quân xin hàng, Tào công có được thủy quân,
thuyền, bộ binh kể là chục vạn”, sao lại chỉ có năm ngàn? Có điều, chúng ta
không thể làm rõ được là mấy mươi vạn; Tào Tháo nói mình có tám mươi
vạn, đó là nói khống. Nhưng nếu bớt đi một nửa, cũng có bốn mươi vạn; lại
bớt đi một nửa nữa, cũng có hai mươi vạn. Con số mà Chu Du tính toán cũng
là vậy. Có học giả cho rằng, con số Chu Du tính tới là toàn bộ binh lực của
Tào Tháo, không phải là số quân tham chiến. Vậy nếu bớt đi một nửa thì
cũng có mười vạn. Hơn nữa, truy đuổi Lưu Bị là năm ngàn kỵ binh, làm gì có
hạm thuyền “đầu đuôi liên tiếp”, làm gì có chuyện hoả thiêu Xích Bích? Cho
nên, nói trận chiến Xích Bích là “trận tao ngộ” e chỉ có một người.
Sau khi đã xác định quy mô tương đối lớn, trận chiến Xích Bích có bốn
giai đoạn, là quyết sách, chuẩn bị, giao chiến, hoàn thành. Quá trình này,
Tam quốc diễn nghĩa viết rất tinh tế, lưu lại một di sản quý báu trong kho
tàng văn học cổ đại Trung Quốc. Nhưng lấy làm tiếc khi phải chỉ ra rằng, văn
học không phải lịch sử. Tam quốc diễn nghĩa đã tốn hết tám hồi để mô tả đậm
nét về quá trình chiến tranh, nhất là những câu chuyện làm khoái khẩu mọi
người, nhưng phần lớn lại là hư cấu.
Ở đây cũng có hai tình huống. Một loại hoàn toàn không có trong sử, như
“Uốn lưỡi bẻ bọn nho”, “Lấy trí khích Chu Du”, “Hám Trạch dâng thư”,