Page 456 - Phẩm Tam Quốc
P. 456
Du thì khác, luôn hành lễ theo quan hệ vua tôi, (một mình tận kính theo lễ
thần tử), dẫn đầu trong việc xác lập quyền uy của vua Tôn Quyền. Một người
“cùng mọi người lo phò tá”, một người “một mình tận kính theo lễ thần tử”,
Tôn Quyền một lúc đứng trên vai hai người, bỗng chốc trở nên cao lớn.
Việc Trương Chiêu và Chu Du ủng hộ là cực kỳ quan trọng vì hai người đó
đều không phải là người “Giang Đông”, lại đại diện cho hai thế lực chính trị.
Chúng ta đều biết, cũng giống như chính quyền Thục Hán được Lưu Bị xây
dựng sau khi vào Thục, chính quyền Đông Ngô do Tôn Quyền thành lập cũng
bao gồm ba phái. Có điều, khi Tôn Quyền thay thế ba phái này chỉ là ba thế
lực chính trị. Chúng ta cần phải nói thêm về ba thế lực chính trị này, nếu
không sẽ không sao rõ được rất nhiều tình hình ở Đông Ngô. Tất nhiên chỉ có
thể nói qua. Nếu muốn biết tường tận hơn, xin đọc Con đường Tôn Ngô lập
nước của ngài Điền Dư Khánh.
Thế lực chính trị thứ nhất là “Tập đoàn quân sự Hoài, Tứ”, gọi tắt là “Hoài
Tứ tướng lĩnh”, bao gồm quân cũ của Tôn Kiên và Tôn Sách, nói rõ hơn là số
người từ rất sớm đã theo cha con Tôn Kiên, Tôn Sách Nam chinh Bắc chiến
giành thiên hạ. Trong số này người cũ của Tôn Kiên là: Trình Phổ người
huyện Thổ Ngân quận Hữu Bắc Bình; Hoàng Cái người huyện Tuyền Lăng,
quận Linh Lăng; Hàn Đương người huyện Lệnh Chi, quận Liêu Tây. Quân cũ
của Tôn Sách gồm có: Tưởng Khâm người huyện Thọ Xuân, quận Cửu
Giang; Chu Thái người huyện Hạ Thái, quận Cửu Giang; Trần Võ người
huyện Tùng Tư, quận Lư Giang. Chu Du là nhân vật đại biểu cho phái hệ
này. Chu Du người huyện Thư, quận Lư Giang, từ nhỏ đã “thân tình” với Tôn
Sách, cùng Tôn Sách từ “Giang Tây” vượt sông đánh tới đây, vừa là “anh em
thân thiết” vừa là “anh em cọc chèo” với Tôn Sách, trở thành lãnh tụ của phái
hệ này.
Thế lực chính trị thứ hai là “tân khách ngụ cư ở đây”, gọi là “Bắc sĩ lưu
vong”. Họ vốn từ phương bắc, chạy loạn tới Giang Đông, lúc đầu nhờ cậy
vào thái thú, châu mục ở Giang Đông, về sau theo về với tướng lĩnh Hoài Tứ
hoặc đại tộc Giang Đông, nên gọi là “tân khách đến ngụ cư”, như Trương
Chiêu người Bành Thành; Gia Cát Cẩn người huyện Dương Đô, quận Lang
Nha; Bộ Chất người huyện Hoài Âm, quận Lâm Hoài; Trương Hoành người
quận Quảng Lăng; Nghiêm Tuấn người Bành Thành; Thị Nghi người huyện
Doanh Lăng, Bắc Hải. Họ đều đến “Giang Đông lánh nạn”, nên gọi là “Bắc sĩ
lưu vong”. Thế lực chính trị này tuy là một phái hệ phân tán, thậm chí không
thành phái hệ, nhưng vì họ là nhân sĩ từ phương bắc, nên ảnh hưởng thật khó