Page 114 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 114

113


                         Quy định này cho phép cơ quan tiến hành tố tụng quyết định hình phạt

                  dễ dàng hơn đồng thời hạn chế đƣợc những bất cập và thể hiện đƣợc nguyên
                  tắc xử lý có phân biệt trong luật hình sự Việt Nam.

                         c. Trách nhiệm hình sự của tội phạm hoàn thành

                         Tội phạm hoàn thành là trƣờng hợp trong hành vi nguy hiểm cho xã hội

                  do chủ thể thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu đƣợc mô tả trong cấu
                  thành tội phạm nào đó (tội danh cụ thể) tại Phần các tội phạm Bộ luật hình sự.

                         Hiện nay, khái niệm  “chuẩn bị  phạm  tội”,“phạm tội  chưa đạt”,“tự ý

                  nửa chừng chấm dứt việc phạm tội”... đã đƣợc thể hiện rõ trong Bộ luật hình
                  sự hiện hành, nhƣng khái niệm “tội phạm hoàn thành” chƣa đƣợc quy định

                  trực tiếp mà gián tiếp “mặc định” tại Phần các tội phạm với 314 tội danh đều ở
                  thời điểm hoàn thành. Vì vậy, có quan điểm cho rằng khi nào thực tiễn xảy ra

                  “trường hợp đó” thì lúc này mới tồn tại cấu thành tội phạm cụ thể (có sự kết
                  hợp  Phần  chung  và  Phần  các  tội  phạm),  gọi  đó  là  “cấu  thành  tội  phạm  bổ

                  sung”.

                         Một tội phạm đƣợc coi là hoàn thành khi hành vi phạm tội đã thoả mãn

                  hết các dấu hiệu khách quan đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm. Điều đó có
                  nghĩa là khi một tội phạm hoàn thành thì hành vi phạm tội đã có đủ các dấu

                  hiệu nói lên đƣợc đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của loại tội đó. Với
                  quan niệm này, Luật hình sự Việt Nam khẳng định: thời điểm tội phạm hoàn

                  thành  không  phụ  thuộc  vào  việc  ngƣời  phạm  tội  đã  đạt  đƣợc  mục  đích  của
                  mình hay chƣa. Khái niệm tội phạm hoàn thành ở đây đƣợc hiểu theo nghĩa

                  hoàn thành về mặt pháp lý, tức là tội phạm đã thoả mãn hết các dấu hiệu của
                  cấu thành tội phạm. Một tội phạm khi đã hoàn thành về mặt pháp lý, có thể

                  dừng lại, không xảy ra nữa trong thực tế, nhƣng cũng có thể tiếp tục xảy ra.
                  Trái lại, một tội phạm có thể tuy đã dừng lại nhƣng chƣa hoàn thành.


                         Trong thực tiễn áp dụng, khi xác định một trƣờng hợp phạm tội cố ý cụ
                  thể đã hoàn thành hay chƣa, chỉ cần kiểm tra hành vi phạm tội đó đã thoả mãn

                  hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm hay chƣa. Sẽ là trƣờng hợp phạm tội
                  hoàn thành nếu hành vi phạm tội đã thoả mãn hết các dấu hiệu của cấu thành

                  tội phạm. Và ngƣợc lại, sẽ là trƣờng hợp phạm tội chƣa hoàn thành nếu hành vi
                  phạm tội chƣa thoả mãn hết các dấu hiệu khách quan của cấu thành tội phạm.

                         Nhƣ vậy, việc quy định thời điểm hoàn thành của từng tội phạm đƣợc

                  thực hiện qua việc xây dựng các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Thời điểm
   109   110   111   112   113   114   115   116   117   118   119