Page 118 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 118

117


                         Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ miễn trách nhiệm hình sự

                  nhƣng không phải là không có sự việc phạm tội, miễn tức là có  trách nhiệm
                  hình sự nhƣng Nhà nƣớc miễn trách nhiệm hình sự. Về ý nghĩa xã hội miễn

                  trách nhiệm hình sự cũng giống nhƣ loại trừ trách nhiệm hình sự (không còn
                  trách nhiệm hình sự) nhƣng về mặt pháp lý họ vẫn có thể bị xử lý bằng biện
                  pháp khác. Do đó miễn trách nhiệm hình sự trong trƣờng hợp này thực chất là

                  miễn truy cứu trách nhiệm hình sự về tội họ định phạm còn hành vi của họ trên
                  thực tế cấu thành tội gì thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội ấy. Nếu

                  hành vi của họ không cấu thành tội nào đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự
                  năm 2015 thì họ không phải chịu trách nhiệm hình sự và trong trƣờng hợp này
                  thì tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đƣợc coi là một trƣờng hợp loại trừ

                  trách nhiệm hình sự.

                         II. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TRONG ĐỒNG PHẠM

                         1. Cơ sở trách nhiệm hình sự trong đồng phạm

                         Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý đặc biệt mà Nhà

                  nƣớc áp dụng đối với ngƣời phạm tội. Luật hình sự nhà nƣớc ta ghi nhận: “Chỉ
                  người nào phạm một tội đã được Luật hình sự quy định mới chịu trách nhiệm

                  hình sự ” (Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015). Để xác định một hành vi gây
                  thiệt hại có phải là tội phạm hay không phải dựa trên cơ sở xác định hành vi đó
                  có thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm không? Nếu có thì phạm

                  tội gì? Và hình phạt nhƣ thế nào? Vì vậy, cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lý
                  của trách nhiệm hình sự.

                         Điều 53 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:“Khi quyết định hình phạt

                  đối với những người đồng phạm, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm,
                  tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm. Các tình

                  tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự  thuộc người đồng
                  phạm nào, thì chỉ áp dụng đối với người đó”.

                         Về mặt nguyên tắc, trách nhiệm hình sự chỉ đƣợc áp dụng đối với ngƣời

                  thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc mô tả trong cấu thành tội phạm.
                  Do đó, cấu thành tội phạm là cơ sở cần thiết và đầy đủ để truy cứu trách nhiệm
                  hình sự. Trong đồng phạm, hành vi của ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời

                  giúp sức cũng là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhƣng không đƣợc mô tả trong
                  cấu thành tội phạm cụ thể. Hoặc trƣờng hợp đồng phạm giản đơn, hành vi của

                  ngƣời thực hành chỉ thực hiện một phần hành vi mô tả trong trong cấu thành tội
                  phạm, nếu tách riêng thì hành vi của họ không thỏa mãn các dấu hiệu của một
   113   114   115   116   117   118   119   120   121   122   123