Page 117 - STK Mot so van de co ban ve che dinh cac giai doan co y thuc hien toi pham va dong pham trong LHS VN
P. 117
116
Tuy vậy, việc chấm dứt thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của
ngƣời phạm tội phải tự nguyện và rõ ràng dứt khoát, cũng nhƣ việc này chỉ xảy
ra trong trƣờng hợp tội phạm đƣợc thực hiện ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội,
phạm tội chƣa đạt chƣa hoàn thành và điều kiện khách quan không có gì ngăn
cản việc thực hiện tội phạm. Trƣờng hợp:“nếu một người nào đó quyết định
ngừng thực hiện tội phạm sau khi thấy rõ ràng điều kiện khách quan không cho
phép thực hiện được tội phạm thì không được thừa nhận là tự ỷ nửa chừng
chẩm dứt việc phạm tội”.
Do đó, nếu ngƣời tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đáp ứng các
điều kiện đã nêu thì đƣợc miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm. Nếu
hành vi thực tế đã thực hiện có đầy đủ yếu tố cấu thành của một tội khác thì
ngƣời đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Miễn trách nhiệm hình sự do đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội
thuộc thẩm quyền áp dụng của bất kỳ cơ quan tƣ pháp hình sự nào căn cứ vào
giai đoạn tố tụng hình sự tƣơng ứng cụ thể (cơ quan Điều tra với sự phê chuẩn
của Viện kiểm sát, Viện kiểm sát hoặc Toà án). Đây là dạng miễn trách nhiệm
hình sự có tính chất bắt buộc đối với tất cả các cơ quan tƣ pháp hình sự khi có
đủ cơ sở cho thấy ngƣời phạm tội đã thực sự “tự mình không thực hiện tội
phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản ” và đây chính là căn cứ pháp lý duy
nhất đƣợc quy định trong luật. Tuy nhiên, nhƣợc điểm cần phải đƣợc khắc
phục của luật hình sự Việt Nam là mới chỉ quy định việc áp dụng dạng miễn
trách nhiệm hình sự này đối với một ngƣời đồng phạm - ngƣời thực hành (khi
sử dụng thực ngữ “việc phạm tội”), mà chƣa quy định cụ thể và rõ ràng việc áp
dụng nó với ba loại ngƣời đồng phạm còn lại - ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục và
ngƣời giúp sức.
Dạng miễn trách nhiệm hình sự này chỉ tồn tại trong trƣờng hợp tội
phạm đã thực hiện ở hai giai đoạn đầu của hoạt động phạm tội sơ bộ - chuẩn bị
phạm tội và phạm tội chƣa đạt chƣa hoàn thành, đồng thời cũng không phụ
thuộc đó là loại tội phạm nào.
Do pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành không hề quy định một căn cứ
pháp lý nào bắt buộc các cơ quan tƣ pháp hình sự phải hạn chế phạm vi áp
dụng chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, nên dạng miễn trách
nhiệm hình sự này có thể đƣợc áp dụng đối với tất cả những trƣờng hợp tội
phạm chƣa đạt. Có nhận thức thống nhất và đúng đắn nhƣ vậy thì mới có thể
thấy rõ bản chất nhân đạo của chế định này và góp phần thực hiện có hiệu quả
chức năng ngăn ngừa việc thực hiện tội phạm.