Page 225 - Giữa khi mưa lưu hoàng đổ
P. 225

et l’autre l’Amour…” với nghĩa: người đời có được hai cánh
            đồng bát ngát để sinh tồn với tên gọi: NGHỆ THUẬT (L’ART)
            và TÌNH YÊU (L’AMOUR).

                  Ngăn đọc tiếng Pháp mà người ta không hiểu, cứ ngỡ
            nhầm tiếng Mỹ nên suy diễn rằng “thơ đế quốc”, phải đâu! Tôi
            nói điều đó để anh bạn tốt của tôi rõ và về Đài kể Ngăn nghe.
            Ngăn  cười  rất  hiền  và  nói  lâu  lâu  đọc  thơ  “bí  hiểm”  của
            Baudelaire mà cũng bị nhà nước nhắc nhở! Tôi nói “quả báo
            nhãn tiền” bởi anh có bài thơ hay nhưng bí hiểm - bài “Bên hồ
            Thủy Ngữ” được nhiều người thích và thuộc – song hồ Thủy
            Ngữ ở đâu, nó đẹp ra sao, thì chính anh cũng… không biết!
            Thơ mà! Và anh vui vẻ: “Khi sáng tác bài đó, mình hút gần một
            bao Bastos xanh, khói thuốc là  khói sương của hồ Thủy Ngữ
            đó, Nhạc à!”.

                  2.

                  Trước nay đã có một số tác giả viết về vị trí của nhà thơ
            Lê Văn Ngăn trong văn học cũng như các nội dung liên quan
            đến chỗ đứng của anh trong dòng thơ tự do theo nhiều cách
            nhìn nhận riêng. Để góp vào đó, lần này chúng tôi gửi đến quý
            thân hữu một góc nhìn khác, từ trong “bàn thờ Phật” của nhà
            anh nhìn ra. Có lẽ bạn sẽ hỏi tôi: nghĩa là sao? Thì đây:

                  Vào những năm 1970 – 1971, em ruột của Ngăn là Lê
            Văn Kịch hay ghé lại trụ sở Tổng hội Sinh viên Huế số 22 đường
            Trương Định để uống cà phê, nói chuyện thơ văn chơi. Kịch
            dáng người ốm và cao hơn anh Ngăn, chữ viết của Kịch cũng
            nhỏ và đều đặn như Ngăn, cũng làm thơ và siêng đi “bụi” như
            tôi. Tội lắm, nhiều đêm Kịch không còn một xu dính túi, nói
   220   221   222   223   224   225   226   227   228   229   230