Page 209 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 209
Tiếng Việt Tuyệt-Vời Đỗ Quang-Vinh
là con thuyền trôi dạt phương xa, thiếp như bến nước đợi
chờ. Bến thì một chốn nhất-định, chứ thuyền thì nay đó mai
đây, giang-hồ lãng-tử. Thiếp bao giờ cũng vẫn thủy-chung
khăng-khăng một dạ. Còn chàng, không biết có nhớ nữa hay
không, tới người tình đang mong chờ khắc-khoải? Ðem hình-
ảnh con thuyền bến nước mà sánh với "đôi ta" để tỏ bày
tình yêu mặn nồng gắn-bó, để nói lên lòng ngóng đợi tha-
thiết thẫn-thờ thì quả là một lời nói hết sức bóng-bảy ý-nhị.
Ðến đây, người viết lại nhớ tới những cảnh tấp-nập trên bến
dưới thuyền những năm trước cuộc chiến, tại Lan-Mát thuộc
Kiện-Khê vùng Phủ-Lý, Bắc-Việt. Vùng này đặc-biệt có
những ngọn núi đá vôi ăn vào dãy Trường-Sơn. Mỗi kỳ vôi ra
lò, bến sông Lan-Mát sầm-uất khách thương, những thuyền
từ xa tới cất hàng. Ðêm thanh gió mát, thuyền đậu san-sát
dập-dềnh. Tiếng người nói léo xéo. Tiếng hò-hát véo-von.
Bến sông trở nên vui nhộn đầm-ấm. Khi thuyền đã tếch, bến
sông trở lại đìu-hiu. Càng đìu-hiu khi còn lại một chiếc
thuyền cô-quạnh. Trăng thanh gió mát mà sao như lạnh-lẽo,
cái lạnh-lẽo vì thiếu vắng bầu-bạn, thuyền đã xa khơi. Thảo
nào Nguyễn-Trãi đã kín-đáo gửi lòng mình trong bài "Tự
Thán" nhắc khéo tới cảnh chợ chiều tẻ-ngắt của triều Lê-
Thái-Tôn, triều-đại suy-vi cả về kinh-tế lẫn chính-trị mà đóng
đai xung-quanh ngai vàng chỉ là lũ nịnh-thần vô-tài kém đức,
để chính-sự nát bấy giữa lúc thiên-tai trút đổ ào ào”:
“Chiếc thuyền lơ-lửng bên sông,
Biết đem tâm-sự ngỏ cùng ai hay?
Chắc chi thiên-hạ đời nay,
Mà đem non nước làm rầy chiêm-bao?
208