Page 220 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 220

Tiếng Việt Tuyệt-Vời  Đỗ Quang-Vinh

            cẩm, ông cò, chú chiệc hay chú khách, anh học trò dài lưng
            tốn vải, anh chàng này bốn vợ, anh chàng kia chín vợ, hay
            cậu chồng bé con vẫn còn phải bồng bồng bế bế, mụ vợ già,
            cô  gái  xấu-xí  làng  Sơn-Hạ,  luôn  đến  cả  toàn-bộ  xã-hội  nói
            chung với tất cả phong-tục tập-quán của nó.

            1- Dí-dỏm cười đùa.


            Cười những gì? cười những ai? cười lúc nào? và để làm gì?
            Ðấy là nội-dung của trào-lộng. Cười như thế nào? Ðó là xét
            về tính-cách của nụ cười. Chúng tôi chỉ lựa một vài trường-
            hợp đặc-biệt để chứng-minh tính-cách dí-dỏm bông-đùa của
            thứ ngôn-ngữ trào-phúng mua vui.


            Sau đây xin đan-cử một vài trường-hợp lý-thú, nói lên thực-
            trạng tâm-sinh-lý của những ông già bà lão trong bối-cảnh
            tập-tục xã-hội xưa.


                    * Ðó,  một  cuộc  hôn-nhân  "đem  chén  kiểu  mà
            gõ mõ dừa", cô gái đương-thì sánh duyên với cụ già đã gần
            đất xa trời nhưng còn “ham trống bỏi”:
                             “Cụ già đầu bạc răng long,
                        Cưới cô con gái còn măng tuổi đào.”

                    * Ðây, một bà lão đã tám mươi ngoài mà vẫn
            còn khao-khát chuyện nhân-duyên:
                              “Bà già đã tám mươi tư,
                        Ngồi trong cửa sổ gửi thư lấy chồng.”
            Có thể đó là ngoa-ngôn, nhưng cái hình-ảnh ngồi trong cửa
            sổ gửi cánh thư hồng thật là trớ-trêu, không có câu đầu thì


                                          219
   215   216   217   218   219   220   221   222   223   224   225