Page 74 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 74
Tiếng Việt Tuyệt-Vời Đỗ Quang-Vinh
(Nguyễn Khuyến, Lên núi An-Lão)
• Một ví dụ khác nữa, "rắn" là cứng, mà còn là
cứng-cỏi bướng-bỉnh. Ðến đây xin mở thêm dấu
ngoặc: vật thì cứng-rắn, thân-thể thì cứng-cát mà
tính-nết thì cứng-cỏi. Cho nên có thành ngữ "rắn-
đầu" đồng nghĩa với "cứng-đầu, cứng-cổ". Bởi thế,
bài thơ ứng-khẩu sau đây, lấy đề-tài về "loài rắn" đã
làm cho cậu bé Lê-Quý-Ðôn nổi tiếng ngay khi ông
còn để chỏm. Bài thơ sử-dụng những tiếng đồng-âm
trong cách bỡn chữ liệt-kê các tên của loài rắn (liu-
điu, rắn, hổ-lửa, mai gầm, ráo, lằn, hổ-mang):
“Chẳng phải liu-điu, vẫn giống nhà,
Rắn đầu biếng học chẳng ai tha.
Thẹn đèn hổ lửa, đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
Từ nay Châu Lỗ chăm nghề học,
Kẻo hổ mang điều tiếng thế-gia.”
1.3- Sau cùng, xin đan-cử một ví-dụ nữa về tiếng
đồng-âm khác nghĩa, từ "cái" chẳng hạn:
a- "Cái" là một mạo-từ chỉ-định để chỉ-thị một
cách rõ-ràng hơn. Ví dụ: cái bàn, cái ghế.
Nói là "con dao", chỉ là con dao thông-thường nói chung.
Nhưng nếu nói "cái con dao này cùn quá, thiệt là tức anh-
73