Page 98 - Tiếng Việt Tuyệt Vời
P. 98
Tiếng Việt Tuyệt-Vời Đỗ Quang-Vinh
Dao-trì nhất phiến nguyệt,
Thượng-uyển nhất chi hoa.
Ô-hô! Vân tán tuyết tiêu,
Hoa tàn nguyệt khuyết!
(Nàng là một áng mây trên bầu trời trong xanh, một cụm
tuyệt trắng giữa vũ-trụ mênh-mông, một vầng trăng tỏ dưới
đáy ao ngọc của bà tiên Tây-Vương-Mẫu, một cành hoa
trong vườn của đấng quân-vương. Than ôi! thế mà mây đã
biến, tuyết đã tan, hoa đã tàn, trăng đã mờ nhạt).
Trong Hán-Văn, chỉ bốn, năm từ đủ họp thành một câu rất
dồi-dào ý-nghĩa. Riêng một từ thôi, cũng đã có biết bao
nghĩa chưa kể nghĩa bóng kèm theo. Những từ này nghĩa
khác nhau tuy cùng đọc như nhau song chữ viết hoặc giống
nhau hoặc khác nhau. Khi phiên âm sang tiếng Việt, cách
phát-âm na-ná tiếng Quảng-Ðông, thuộc vùng Lưỡng-Quảng
xứ Lũng-Nam, nơi mà ngàn năm xưa bộ tộc Bách Việt đã
dừng chân và phân-hóa: một số ở lại đồng-hóa với người
Hán, số khác tiếp tục xuôi Nam đi về vùng đồng bằng Bắc-
Việt, đồng-hóa với dân-tộc Việt cổ xưa vốn sinh sống tại đây
lâu đời, dựng nên nước Âu-Lạc, khai-sinh cho một thế-hệ
mới, thế-hệ Lạc-Việt, tổ-quốc Việt-Nam. Sau đây đan-cử một
vài ví-dụ:
* Xét về từ HÀM chẳng hạn. Một trong các nghĩa
của Hàm là ngậm trong miệng. Do nghĩa này có từ HÀM-
SÚC. Hàm-súc là cất chứa và ngậm miệng lại, lời văn hàm-
súc là lời văn có nhiều ý-tứ mà không để lộ ra, lời văn tuy
thoạt đọc thì thấy giản-dị bình-thường song càng phân-tích
ngẫm-nghĩ, càng khai-thác đào sâu thì càng thấy giấu ẩn
biết bao nhiêu ý, tình. Một nghĩa khác của hàm là phong
97