Page 210 - Xứ Đàng Trong_Li Tana
P. 210
208 XỨ ĐÀNG TRONG
phương hoặc 40, 50 nhà, mỗi nhà điền nô hoặc đến 50, 60 người,
trâu bò hoặc 300 đến 400 con...” .
1
Phủ biên cũng cho thấy là việc mở mang các vùng đất phì
nhiêu ở hai huyện Bình Sơn và Chương Nghĩa thực hiện được,
một phần, là nhờ ở nô lệ người Thượng. Nguồn tư liệu này nói
là họ Nguyễn hồi đầu đã thiết lập được 72 địa điểm tại đây do
số tá điền mộ được từ miền núi. Tuy nhiên, trong bối cảnh này,
từ “mộ” có thể được hiểu theo nghĩa rộng, gồm cả những người
mua được hay bắt được và bị dùng làm nô lệ .
2
Việc dùng người Thượng làm nô lệ này cũng còn để lại dấu
vết trong ngôn ngữ ở Đàng Trong. Từ “tôi” trong ngôn ngữ
Việt Nam có nghĩa là người phục vụ, như tôi con, tôi đòi, tôi tớ,
nhưng chỉ có “tôi mọi” là có nghĩa “nô lệ” . Bởi vì, ở phía bắc,
3
từ Việt Nam được dùng để chỉ người Thượng là man chứ không
phải “mọi”, “tôi mọi” có thể là dấu vết do chế độ nô lệ ở Đàng
Trong để lại, đặc biệt là việc người Việt dùng người từ các vùng
cao làm nô lệ.
Các nguồn tư liệu của Việt Nam thường nói là nô lệ chủ yếu
được sử dụng trong nông nghiệp để giải quyết tình trạng thiếu
nhân lực tại Đàng Trong lúc ấy còn thưa dân. Nhưng người ta
cũng thấy tại phủ chúa có một số nô lệ. Theo Poivre, một công
chúa thường có từ 20 đến 30 người phục vụ, một ít binh lính và
một số “petits sauvages esclaves” (mọi nhỏ làm nô lệ) ... Tác giả
4
này cũng nhắc đi nhắc lại về “một bầy tôi người đa đen được
chúa sủng ái. Đây là một người Cao Mên, hay đúng hơn, một
người Lào” rất có uy quyền về mặt chính trị tại phủ .
5
1 Phủ biên, quyển 6, trg. 243.
2 Phủ biên, quyển 2, trg. 82b.
3 Bùi Phụng, Tự điển Việt-Anh, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội, 1978, trg. 1135-1136.
4 Poivre, Journal, trg. 429.
5 Poivre, Ibid, trg. 466, 474.
www.hocthuatphuongdong.vn