Page 211 - Xứ Đàng Trong_Li Tana
P. 211

NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI THƯỢNG                                   209


               Theo Phủ biên, việc buôn bán người Thượng đã trở nên bình
            thường đến độ triều đình đã đánh thuế theo cùng tỷ lệ với việc

            buôn bán voi. Theo đó, chúng ta có thể kết luận được rằng ở
            đây, cả hai, nô lệ và voi được bán theo cùng một giá. Cụ thể,
            một nô lệ, cũng giống như một con voi, giá khoảng hai nén
            bạc, hoặc khoảng 40 quan vào thập niên 1770 , rẻ hơn một tạ
                                                            1
            đồng đỏ (picul). Phủ biên cho biết nô lệ ở đồng bằng sông Cửu
            Long rẻ hơn ở vùng Thuận Hóa xung quanh kinh đô. Một nô lệ
            da ngăm đen, tóc quăn ở đây giá chỉ khoảng 20 quan hay bằng
            nửa giá trong vùng Thuận Hóa. Nô lệ ít đen hơn giá lại càng
            rẻ, chỉ 10 quan .
                            2
               Có thể có hai lý do giải thích sự khác biệt về giá cả này. Trước
            hết giá cả có thể tùy thuộc ở chỗ người nô lệ ở gần nhà hay ở
            xa nhà. Cũng như ở bất cứ đâu trên thế giới “một khi đã bị bắt
            làm nô lệ, một nô lệ gần nhà ít có giá hơn người ở xa nhà, chỉ
            bởi vì anh ta hay chị ta có thể bỏ trốn” . Nếu đó là trường hợp
                                                    3
            của Đàng Trong vào thế kỷ 18, thì những người nô lệ da ngăm
            đen có thể có nguồn gốc từ những vùng núi xa xôi, trong khi

            đó người nô lệ có nước da sáng hơn có thể có nguồn gốc từ
            những vùng giáp với bờ biển, nơi thường xảy ra những vụ hôn
            nhân giữa người Việt Nam và người Thượng. Hoặc sự khác biệt
            về giá cả có thể đã phản ánh mức độ khác nhau của việc Việt
            hóa. Một chuyên khảo về Thủ Dầu Một, xuất bản năm 1910,
            cho phép chúng ta nghĩ như thế. Công trình này cho biết dân
            tộc Stieng được chia thành hai nhóm, một nhóm sống gần Hớn
            Quản (vùng An Lộc ngày nay) và một nhóm sống ở Bù Đốp,



            1   Phủ biên, quyển 4, trg. 5a-5b. Đây là giá nô lệ cao nhất chúng ta có được trong thế kỷ 18.
            2   Phủ biên, ấn bản Hà Nội, trg. 345. Phủ biên ấn bản Sài Gòn lại không có giá. Một thủ bản lưu giữ tại
               Viện Sử học Hà Nội lại đưa ra nhiều giá khác nhau: người da đen tóc quăn nghĩa là một người nô lệ
               thuộc giống Mọi, giá 20 quan; nếu là người da trắng, tức là người Kinh, giá từ 50 đến 60 quan. Để có
               được 100 đến 10 (110?) nô lệ, giá phải hơn 1.000 quan.
            3   Philip  D. Curtin,  “Migration in the  Tropical  World”,  Immigration Reconsidered,  ed. Virginia.Yan-
               Laughlin, Oxford University Press, 1990, trg. 26.

                                                           www.hocthuatphuongdong.vn
   206   207   208   209   210   211   212   213   214   215   216