Page 390 - Phẩm Tam Quốc
P. 390

Thứ  ba,  không  truy  ích  cho  Triệu  Vân  là  có  nguyên  nhân,  vì  lúc  xưng

               vương,  Lưu  Bị  chỉ  phong  bốn  viên  đại  tướng:  Tiền  tướng  quân  Quan  Vũ,
               Hữu tướng quân Trương Phi, Tả tướng quân Mã Siêu và Hậu tướng quân
               Hoàng Trung, không có Triệu Vân cũng không có cái gọi là “Ngũ hổ thượng
               tướng”. Thực tế thì cả đời Triệu Vân chưa có được “danh hiệu tướng quân”,
               lúc Lưu Bị còn sống, chỉ là Dực quân tướng quân, Trấn đông tướng quân, sau
               này vì “thất lợi ở Kỳ Cốc” nên bị giáng xuống làm Trấn quân tướng quân. Vì
               vậy, địa vị của Triệu Vân luôn không bằng Quan, Trương, Mã, Hoàng. Lưu

               Thiền truy ích cho các tướng quân quá cố là theo lệ và danh sách bốn viên đại
               tướng. Đó cũng là kế thừa cách làm của cha mình. Đương nhiên, như vậy là
               vong ân bội nghĩa, là điều làm cho Triệu Vân buồn khổ. Nhưng món nợ này
               phải đổ lên đầu Lưu Bị trước, không thể chỉ trách một mình Lưu Thiền. Hơn
               nữa cuối cùng Lưu Thiền đã truy ích cho Triệu Vân, phải nói là việc làm
               đúng mực, sao còn là sai lầm lớn?

                  Thứ tư, biểu hiện của Lưu Thiền trước Tư Mã Chiêu thực ác độc. Dù là
               vua mất nước cũng không nên hèn yếu như vậy, mất cả cốt cách, lòng không
               trung thực. Lưu Thiền hàng Ngụy được mười ba năm thì Ngô đế Tôn Hạo
               cũng hàng Tấn, được phong là “Quy mệnh hầu”, thấp hơn Lưu Thiền một

               cấp. Theo Tấn thư – Vũ đế kỷ, Tôn Hạo đến Lạc Dương lên điện bái kiến Tấn
               Võ đế Tư Mã Viêm. Tư Mã Viêm cho Tôn Hạo ngồi rồi nói: trẫm ngồi đây
               chờ túc hạ, chờ lâu rồi. Ai ngờ Tôn Hạo xuống ngựa nhưng không tháo yên,
               cà cuống chết đến đít vẫn còn cay, đã uốn lưỡi châm luôn, ở miền Nam thần
               cũng ngồi chờ bệ hạ! Người ta thường nói: tướng bại trận không dám nói

               cứng. Tôn Hạo là vua mất nước, đối mặt với người thắng mình vẫn cứng cỏi
               nhường ấy, lời nói còn có “giá trị thẩm mỹ” hơn Lưu Thiền.
                  Nhưng  Lưu  Thiền  tuy  hèn  yếu,  nhưng  tuyệt  không  yếu  trí.  Lưu  Thiền
               không có cốt cách, nhưng không phải không có cách nhìn. Nói trắng ra, Lưu

               Thiền vờ điên vờ ngốc. Lưu Thiền rất rõ, là vua mất nước thì mãi mãi không
               thể trở về, giữ được tính mạng đã là may. Lưu Thiền cũng rõ, muốn giữ được
               tính mạng, phải làm cho người khác hiểu mình không còn bụng dạ báo thù.
               Không còn tưởng nhớ nước Thục nữa. Đúng như Tam quốc chí tập giải dẫn
               lời Vu Thận Hành nói: “lòng nhớ Thục, (Tư Mã) Chiêu cũng không muốn
               nghe”. Vì vậy, Lưu Thiền cần phải tỏ ra “vui mà quên Thục”. Hơn nữa, Lưu

               Thiền còn phải tỏ ra, dù có lòng nhớ Thục cũng là do người khác dạy cho,
               còn mình chỉ học mà cũng không giống. Kết quả, khi mà “tả hữu đều cười”
               thì cái chức “An Lạc công” kia mới thực là “an lạc”. Câu nói: “một người
               trung thành” không chỉ chứng tỏ mình không nhớ Thục, còn chứng tỏ mình
   385   386   387   388   389   390   391   392   393   394   395