Page 470 - Phẩm Tam Quốc
P. 470

Tần làm đế”. Nhưng là một nhà chính trị thì không thể chỉ nghĩ đến danh dự

               đạo đức của cá nhân mà phải nghĩ tới đại thế thiên hạ và lợi ích đất nước.
               Trên thực tế thì ngay như Gia Cát Lượng có lúc cũng phải biến hoá. Theo chú
               dẫn Hán Tân Xuân Thu của Bùi Tùng Chi trong Tam quốc chí – Gia Cát
               Lượng truyện, thời Thục Hán năm Kiến Hưng thứ VII (Công nguyên năm
               229), Tôn Quyền xưng đế, đã phái sứ giả đến Thục Hán, mong muốn “hai đế
               cùng tồn tại”, tức là nước Ngô thừa nhận Thục đế là Hoàng đế, nước Thục
               cũng  thừa  nhận  Ngô  đế  là  Hoàng  đế  và  đều  không  thừa  nhận  Ngụy  đế  là

               hoàng đế. Kết quả là triều đình Thục Hán đã bàn luận sôi nổi. Và theo đạo
               đức truyền thống thì, trời không thể có hai mặt, người không thể thờ hai vua,
               vậy làm sao có đến hai Hoàng đế trong thiên hạ? Vì vậy tất cả nhất trí chủ
               trương (người người không nên) tuyệt giao với Ngô (xoá bỏ liên minh).

                  Nhưng Gia Cát Lượng đã ngược lại, chủ trương thừa nhận Ngô đế, vì Thục
               Hán cần có sự “giúp đỡ của phía đó”. Rõ ràng, điều mà Gia Cát Lượng suy
               nghĩ không phải là hai chữ “đại nghĩa” chung chung mà suy nghĩ đến lợi ích
               của đất nước một cách thực tế. Quan trọng là Gia Cát Lượng đã nêu rõ một
               điều, quyết sách chính xác của nhà chính trị kiệt xuất phải “quyền thông biến
               hoá, nhìn xa trông rộng”, tuyệt không phải “nỗi bực của kẻ thất phu”. Cũng

               tức là, nhà chính trị cần phải biết thời rõ thế (ứng quyền), nhìn thời mà biến
               hoá (thông biến), mưu sâu kế xa (nghĩ rộng), nghĩ tới lợi ích cơ bản, lợi ích
               lâu dài của nhân dân đất nước (lợi ích xa) không cần sự bực dọc của thất phu,
               không  cần  chủ  nghĩa  giáo  điều.  Lời  nói  rất  hay!  Mấy  lời  nói  của  Gia  Cát
               Lượng khiến cho kẻ “thất phu phẫn nộ” kia có thể nghỉ được rồi.

                  Thực tế thì Tôn Quyền đã “nhìn thời thế mà biến hoá, nghĩ đến lợi ích lâu
               dài”. Tôn Quyền tuy phải khom lưng uốn gối với Ngụy, có sự so sánh không
               xác đáng lắm, là “bán nghệ nhưng không bán thân”, nhưng bản thân vẫn là
               bản thân, giữ được nguyên tắc, giữ được đường lối. Ví dụ Tào Ngụy nhiều

               lần muốn Tôn Quyền cho con cái đến kinh thành làm con tin, nhưng Tôn
               Quyền đâu có nghe. Rõ ràng không phải là thực bụng quy thuận, Ngô chủ
               truyện, “ngoài công việc ra, thành tâm là không thực”. Đây không phải là trò
               hai mặt, mà là bất đắc dĩ. Và Tôn Quyền còn công khai sự “không thành tâm”
               của mình. Theo Tam quốc chí – Ngô chủ truyện, sau khi tiếp nhận phong
               hiệu Ngô vương, Tôn Quyền phái đô uý Triệu Tư sang sứ nước Ngụy. Vừa

               có mặt, Tào Phi đã hỏi Triệu Tư, “Ngô vương là loại chủ thế nào?” Triệu Tư
               nói: “Là chủ thông minh, nhân trí và hùng lược”. Tào Phi cảm thấy thú vị, hỏi
               tỉ mỉ hơn, Triệu Tư cứ giải thích từng chữ một (nhận Lỗ Túc giỏi giang là
               thông vậy; phái Lã Mông ra trận là minh vậy; thu Vu Cấm và không hại là
   465   466   467   468   469   470   471   472   473   474   475